Rau quả đắng chát rất có lợi cho sức khoẻ

 

 

Có nhiều thứ rau quả đắng chát ở thôn quê có giá trị dinh dưỡng và pḥng chống bệnh tật cao.

Ổi: Thường ăn quả của các giống ổi từ các loài: Xá lị (Psidium guajava) và Sẻ (Psidium littorale Raddi). Ngày nay đă có nhiều giống đa bội thể cho trái to trên dưới 1kg, thịt ngọt với ruột đỏ, ruột vàng và ruột trắng. Quả ổi chứa nhiều vitamin C (486mg/100g), chất chát pectin. Lá ổi chứa 0,31% tinh dầu, B-sitsterol, axit maslinic, axit guijavalic, 7- 10% tanin pyrogalic và khoảng 3% nhựa chất pectin. Quả ổi c̣n xanh ăn có vị chát sít, làm săn niêm mạc dạ dày và ruột, giảm tiết dịch vị và dịch ruột, giảm nhu động ruột. Trái lại ăn quả ổi chín có tác dụng nhuận tràng nhẹ. Các món ăn có ổi non ăn dễ tiêu, chắc ruột, giúp cân bằng dinh dưỡng, giảm hấp thu mỡ, đường, chống béo ph́.

Bần: Là cây rừng mọc hoang dại ở vùng cửa sông hoặc được trồng. Quả của bần đĩa (Sonneratia caseolaris) và bần ổi (Sonneratia griffithii), ăn được, chứa nhiều chất archin và archinin. Quả bần đĩa được dùng ăn tươi, làm rau sống và nấu canh cá. Quả bần ổi chua nhiều, chát ít c̣n dùng thay me để nấu canh chua. Dân miệt rẫy thường thái miếng mỏng kẹp thịt luộc, hay ăn với các loại rau vườn khác như đọt mọt, đọt xoài, đọt nghệ, lá chùm ruột, rau càng cua, rau đăng đất. Chất chát của quả bần làm chắc thành mạch và làm lành các vết loét dạ dày, giảm hấp thu đường, mỡ, có tác dụng hạ huyết áp. Người ta c̣n dùng nước quả bần đĩa lên men uống chữa bệnh sốt rét và sốt xuất huyết.

Chuối: Thường gặp là chuối sứ c̣n gọi là chuối tây (Musa paradisiaca), chuối già hay chuối tiêu (Musa sapientum), chuối già lùn đột biến (Musa nanh), chuối bom (Fjgue pommẹ), chuối cao c̣n gọi là chuối ngự (Musa chinensis), chuối sáp (Musa comiculata). Quả chuối là thức ăn dễ tiêu: cứ 1g cho 1 calori. Quả chuối xanh chứa 10% tinh bột, khi chín c̣n 1,2% tinh bột nhưng có đến 16-20% đường mật, protit 1,32%, lipit 0,5%, ngoài ra c̣n có canxi 8mg/kg, ka-li 28mg/kg, sắt, ma giê, kẽm, lưu huỳnh, phốt pho, caroten cùng các vitamin C, B1, B2, PP... Trong quả chuối có nhiều hoạt chất sinh học quư: serotonin, norepinephrin. Đặc biệt có các hoạt chất giúp co giăn thành mạch là dopamin và catecholamin. Nếu ăn chuối thường xuyên, nhất là chuối sứ xanh, các hoạt chất đó được cung cấp từ từ nên không bị cao huyết áp cấp thời, lại có tác dụng phục hồi, chống xơ vữa thành mạch (trong y học, người ta lợi dụng dopamin và catecholamin dùng tiêm chích liều cao để nâng cao huyết áp đối với các bệnh nhân hạ huyết áp). Hoa chuối có tryptophan và các hợp chất indol. Ăn chuối chín có tác dụng nhuận tràng, chống táo bón và làm dịu thần kinh, kích thích lên da non cho các vết loét dạ dày và ruột rất tốt với bệnh nhân viêm loét dạ dày và ruột kết, nhưng chuối chín không thích hợp cho người bệnh tiểu đường (do chứa nhiều cacbon hydrat). Ăn quả chuối xanh giảm kích thích thần kinh, giúp phát triển màng nhầy, tạo thêm được các tế bào tiết chất nhầy giúp pḥng tránh các bệnh viêm loét dạ dày - tá tràng. Nếu ăn cơm với quả chuối xanh thường xuyên sẽ tránh được đau dạ dày. Lơi chuối non, hoa chuối và quả chuối chát (quả chuối hột c̣n non) thái mỏng ăn như rau sống, có tác dụng chống bệnh táo bón, bệnh béo ph́, có tác dụng làm se cứng các vết loét dạ dày, giúp cân bằng dinh dưỡng, giảm hấp thu đường và lipit.

Trâm: Cho quả ăn ngon là trâm mốc (Syzygium cumini). Quả chín có vị ngọt chát giàu vitamin C, ăn giúp tiêu hóa tốt, hạ thấp đường huyết, trị tiêu chảy, giảm kích thích thần kinh dạ dày và thần kinh trung ương, hạn chế tiết dịch vị, chữa ợ chua, viêm dạ dày. Lá trâm mốc chứa nhiều tanin dễ tiêu và được dùng nấu nước uống như trà có lợi cho bệnh nhân tiểu đường.

Mận và Lư: Mận, roi (Syzygium semarangense) cho trái chua ngọt, ăn giải khát. Có nhiều loài cho trái nhỏ khá chát, có lợi ích cho đường tiêu hóa, hạn chế hấp thu mỡ. Loài Lư (Syzygium jambos) cho trái ăn thơm, có vị chát tốt cho gân cốt, giúp phục hồi gan.

Cà na: Là loại cây rừng có khoảng 600 loài. Nhiều loài cũng được trồng để khai thác: cà na nhọn (Canarium Subulatum) rất chát, cây bụi mọc ven sông rạch đồng bằng sông Cửu Long, rừng Sát Cần Giờ. Cà na bầu có nhiều ven sông rạch tỉnh Tiền Giang, trám đen (Canarium nigrum) và trám trắng (Canarium album) mọc ven sông suối tỉnh Đác Lắc. Trong quả trám có 12% protit, 1% chất béo, 12% hydrat cacbon, 0,2% canxi, nhiều phốt phát, sắt và vitamin C (21mg/ 100g). Quả trám ăn bùi có vị chua ngọt ăn ít chát. Trái cà na nhọn và cà na bầu ăn có vị chua, chát sít do chứa nhiều tecpinen và chất tecpineol. Quả của các loài cà na ăn tốt có tính ôn ḥa, không độc, tốt cho yết hầu, sinh tân dịch, chống viêm hầu họng. Ngoài ra c̣n có tính giải độc rượu và cá nóc, có thể ăn sống hoặc qua chế biến như luộc, sên đường, ướp muối, giúp ổn định thần kinh, chống stress. Nếu ăn thường xuyên sẽ giảm bệnh béo ph́. Những người gầy yếu, huyết áp thấp, suy dinh dưỡng không nên dùng do hạn chế hấp thu chất đường và bột.

Bồ quân: Thường có 3 loại được ưa chuộng: bồ quân lá nhỏ (Flacourtia jangomas) gặp khá phổ biến từ Huế vào Nam. Bồ quân lá to (Flacourtia rukkam) trồng khá nhiều ở Long Khánh cho đến Tiền Giang, và bồ quân Ân (Flacourtia indica), chỉ gặp ở vùng khô hạn từ Nha Trang vào đến Phan Rang. Quả bồ quân thường có nhiều vào mùa hè. Quả ăn có vị ngọt, chua, chát (trước khi ăn nên ṿ mềm, chất chát sẽ quyện vào thịt quả và ăn sẽ không thấy chát sít. Bồ quân là thứ quả quư có tác dụng làm se niêm mạc dạ dày và ruột, làm giảm tiết dịch vị, tốt cho gan mật (tiết nhiều mật, pḥng tránh bệnh viêm mật và sỏi mật), sạch khí huyết. Ăn nhiều gây nhuận trường nhẹ (phụ nữ mang thai không được dùng, dễ bị sẩy thai).

Chùm ruột: Có giống ngọt và giống chua từ cùng loài chùm ruột (Phyllanthus acidus). Quả chùm ruột chứa 6-7% gluxit, 1,7% axit axetic, 0,6-6,7% lipit và nhiều vitamin C, tương đương với bưởi và chanh (khoảng 40mg/100g) Quả chùm ruột có thể ăn sống, nấu canh chua hoặc sên đường, tác dụng làm mát, giải nhiệt, chữa bệnh nhức đầu. Lá non ăn có vị chua chát sít thường ăn với nem, thịt mỡ, có tác dụng cân bằng dinh dưỡng, giảm hấp thu mỡ. Dùng lá non để ủ mắm tép, nem chống được meo mốc. Chú ư rễ chùm ruột có độc, khi bị ngộ độc có những triệu chứng nhức đầu, đau bụng, nếu nặng có thể dẫn đến tử vong, không nên lấy cành chùm ruột xuyên cá thịt để nướng trên lửa.

Sung: Có thể ăn quả già và lá non của một vài loài sung: Sung thường (Fucus racemosa), sung thằn lằn (Ficus Pumila) và vả (Fucus Caric). Quả giả và lá của chúng c̣n non chứa nhiều mủ chát, trong đó có khoảng 50% chất lisozim. Đó là một hoạt chất sinh học có tác dụng sát khuẩn. Sung thằn lằn cho quả to, bầu tṛn, có đường kính 3-3,5cm. Quả sung thằn lằn có h́nh tháp nhọn vuông, cạnh dài đến 5cm. Quả giả non của các loài trên ăn được như chuối chát hoặc trộn rau sống hoặc muối, thường để ăn với mắm nêm và thịt luộc, có tác dụng cân bằng dinh dưỡng, giảm hấp thu mỡ, làm chắc ruột. Quả sung chín ăn vị ngọt có tác dụng nhuận tràng nhẹ. Lá sung non ăn như rau sống có vị chát, gây lợi sữa. Lá và dây của sung thằn lằn là vị thuốc trị di tinh, cường dương. Nên thu lấy thân dây già chặt khúc nấu nước uống thường xuyên sẽ giúp ăn ngon, ổn định thần kinh, giúp ngủ tốt.

Phần lớn các loại rau quả đắng chát là cây rừng hoặc cây nhà lá vườn, nhưng hoàn toàn xanh sạch, ăn sẽ có lợi cho cơ thể, hạn chế và chữa được nhiều bệnh tật.

 

Theo Tạp chí Khoa học và Đời sống