Nấm
Linh Chi và Nhân Sâm
Từ
hơn 4000 ngàn năm trước, ở Trung Quốc, nấm Linh Chi đă được coi như một loại
thần dược chỉ dành riêng cho các bậc vua chúa. V́ thế Linh Chi c̣n có nhiều tên
gọi khác nhau như : Bất lăo thảo, Thần tiên thảo, Vạn
niên, nấm Thần Lim... Ngày nay, nấm Linh Chi đă được khai
thác, trồng trọt và chế biến thành các sản phẩm đắt giá với quy mô công nghiệp.
Một loại dược thảo thiên nhiên khác đó là nhân sâm,
một loại rễ cây có h́nh dáng hơi giống cơ thể con người.
Từ lâu, nhân sâm được gán cho nhiều đặc tính bồi bổ sức khoẻ
và trị liệu bệnh tật, kể cả việc cứu sống sinh mạng con người mà hiếm có loại
dược thảo nào sánh kịp.
Mỗi năm, thế giới tiêu thụ hàng trăm tấn Linh Chi,
Nhân Sâm dưới dạng thực phẩm, hay dược phẩm. Nhờ khả năng làm gia tăng tính miễn
dịch của cơ thể, Linh chi và Nhân sâm đă góp phần không nhỏ vào công việc nghiên
cứu ngăn ngừa, điều trị AIDS, ung thư, tim mạch, tiểu đường, hô hấp... những căn
bệnh đang có chiều hướng gia tăng trong khi giới y học chưa có biện pháp pḥng
chống, chữa trị hiệu quả, nếu không muốn nói là vô phương cứu chữa.
Có bao nhiêu loại nấm Linh Chi ?
Theo “Thần Nông bản thảo kinh” viết cách đây hơn
2000 năm th́ loại nấm hoang thường mọc ở những vùng rừng núi Á Đông ẩm ướt có
tác dụng chữa bệnh kỳ diệu chính là Linh Chi. Đời Minh, nhà y dược học Lư Thời
Trân trong “Bản thảo cương mục” cũng đă nói: “Linh Chi có tác dụng tối ưu hóa
quá tŕnh tuổi, tức là làm cho cơ thể khỏe mạnh, lâu già, tăng tuổi thọ. Như dân
gian đă có câu: “Linh Chi dùng lâu ngày, ḿnh nhẹ, trẻ măi như thần tiên”.
Linh Chi là loại nấm gỗ có tên khoa học là
Ganoderma licidum.
Về h́nh thức, đó là một loại nấm có mũ đính bên, quả thể nấm
khi non thường có màu trắng, sau thành vàng đến màu nâu nhạt. Theo đông
y, tên của Linh Chi có thể đặt tùy theo màu sắc của
nó: Bạch chi - màu trắng, Hoàng chi - màu vàng, Thanh chi - màu xanh...
Mỗi màu đặc trưng cho một tác dụng dược lư khác nhau.
VD: Thanh Chi có vị chua, không độc, chữa sáng mắt,,
bổ gan, khí an thần, tăng trí nhớ. Hồng Chi, màu đỏ, vị đắng, không độc, tăng
trí nhớ, dưỡng tim. Hoàng Chi, vị ngọt, không độc,
an thần, tích tỳ khí. Bạch Chi, vị cay, không độc,
ích phổi, thông mũi, cường ư chí, an thần.
Hắc Chi vị mặn, không độc, trị chứng bí tiểu, ích thận.
Tử Chi vị ngọt không độc, trị đau nhức khớp xương - gân cốt...
Theo nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới:
trong quả thể cũng như khuẩn ty nấm có gần 100 chất. Các nhóm chất và các chất
có hoạt tính sinh học là: Protein, polysacchrrid, tritepen, steroid, alcaloid,
nucleotid, axit béo, enzim kháng sinh và các nguyên tố khoáng. Đặc biệt có các
hoạt chất quư: axit gannoderic, sesium, gecmanium (lớn gấp 20 lần ở nhân sâm)...
Về mặt hoạt tính dược lư: Các hoạt chất thuộc nhóm axit béo có khả năng ức chế
giải phóng Histamin. Nhóm nucleotid ức chế kết dính tiểu cầu,
thư giăn cơ, giảm đau. Nhóm
protein chống dị ứng phổ rộng, điều ḥa miễn dịch. Nhóm alealoid trợ
tim. Nhóm sterois giải độc gan,
ức chế sinh tổng hợp cholesterol. Nhóm polisaccherrid
hạ đường huyết. Nhóm polisacc chống ung thư
tăng tính miễn dịch, tăng tổng hợp protein, tăng chuyển hóa axit nucleic và trợ
tim. Nhóm triterpen hạ huyết áp ức chế ACE bảo vệ gan, chống khối u. Linh Chi có
tác dụng làm tăng hệ thống miễn dịch, chống các tế bào lăo hóa, khử các gốc oxy
tự do, sửa chữa cấu trúc ADN (gen) bị hỏng, trung ḥa các chất độc, bảo vệ gan
ngừng tổng hợp cholesterol, trung ḥa virus, ức chế một số vi khuẩn gây bệnh,
tác động vào trung ương thần kinh, làm giảm đau và phục hồi những dây thần kinh
đă bị hỏng và kéo dài tuổi thọ (Willard 1990). Mặt khác Linh Chi c̣n khắc phục
được những tác dụng có hại của hóa trị liệu và liệu pháp chiếu
tia trong điều trị ung thư (Kupin 1993). Ngoài các
tác dụng đă được chứng minh từ lâu đối với các bệnh ung thư
phổi, ung thư vú và ung thư dạ dầy, gần đây người ta c̣n thấy nó có tác dụng với
ung thư tử cung, ung thư khoang miệng, ung thư đại tràng, ung thư gan...
Đặc biệt nếu kết hợp với hóa trị liệu th́ sẽ có kết quả
nhanh hơn. V́ vậy mà từ năm 1993 chính phủ Nhật Bản đă chính thức đưa
Linh Chi vào điều trị ung thư tại các trung tâm chống ung thư. Năm 1998, Nhật
Bản đă thành công vào việc chữa trị khối bệnh cho 300 bệnh nhân bằng nấm Linh
Chi, dựa trên nguyên tắc điều ḥa miễn dịch mà không có một tác dụng phụ nào
(Side - effects). Ông Morishige - giáo sư tiến sĩ y khoa của Nhật đồng thời cũng
là chuyên gia trong lĩnh vực này đă nói: “Tôi chưa thấy một chất nào có tác dụng
ngăn ngừa và điều trị ung thư như nấm Linh Chi”. Ở Trung Quốc, các bệnh viện lớn
cũng đă dùng Linh Chi để điều trị bệnh, đặc biệt các bệnh như: ung
thư, tim mạch, huyết áp, tiểu đường, hô hấp... Tại
bệnh viện Sơn Đông (Trung Quốc) các bệnh nhân bệnh gan và tiết niệu cũng đă được
điều trị bằng chế phẩm Linh Chi. Người ta cho bệnh nhân ăn “súp” Linh Chi để
giải độc và bổ gan có kết quả trên 90% cho 70.000 trường hợp. Tại đây các bác sĩ
c̣n cho biết: nấm Linh Chi bóng có tác dụng tốt trên đường tiết niệu, điều ḥa
rối loạn tuần hoàn năo, tránh các cơn kịch phát nghẽn và làm dịu thần kinh.
Trong việc thử nghiệm chế phẩm Linh Chi nơi pḥng
thí nghiệm và trên lâm sàng. Tại pḥng thí nghiệm, khi lấy nước chiết từ quả
thể, và sinh khối nấm Linh Chi đun dịch chiết, cho khuếch tán trên thạch đĩa,
với vi khuẩn kiểm định là G+ và G- đă cho thấy hoạt tính kháng sinh ở quả thể và
sinh khối nấm Linh Chi khá mạnh, có khả năng ức chế vi khuẩn G+, G-.
Đặc biệt Linh Chi sinh khối cho ṿng kháng khuẩn to và rơ
nhất. Thực tế, hiện nay trong y học có nhiều loại vi khuẩn đă kháng lại
nhiều loại thuốc làm ảnh hưởng tới việc điều trị của bác sĩ, nhưng khi đem thử
khả năng chống vi khuẩn của Linh Chi đối với một số vi khuẩn gây bệnh như :
Staphylococus aureus gây nhiễm trung máu, Salmonella vi khuẩn gây bệnh thương
hàn, Bacillcus, gây độc tố nhiễm độc thức ăn th́ kết quả cho thấy kháng sinh của
quả thể và sinh khối Linh Chi đă ức chế được các vi khuẩn gây bệnh kể trên.
Nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Willard và Fones 1990 cho thấy nước
chiết từ quả thể nấm Linh Chi ức chế vi khuẩn
Streptococus (tụ cầu khuẩn), Staphylocous, Bacillus pneumoniec (vi khuẩn gây
viêm phổi). Về độ độc tính củasinh khối Linh Chi khi thí nghiệm trên chuột nhắt
trắng có trọng lượng 18-20 gam, cho chuột uống liều 160g/kg, trọng lượng gấp 800
lần liều dùng cho người mà chuột vẫn không chết. Điều đó chứng tỏ thuốc không có
aflatoxin và có độ an toàn cao về độc tính cấp. Đối
với lâm sàng: thử trên 300 người, bị các bệnh huyết áp, tim mạch, tiểu đường,
tâm thần, động kinh, khối u, ung thư... kết quả Linh Chi có tác dụng tốt với các
loại u như: u vú, u tử cung, u gan, u dạ dày, u năo, u ṿm họng, u đa tủy, tăng
bạch cầu cấp, và một số bệnh nhân viêm gan siêu vi trùng. Một số tác dụng khác
như say tàu xe, ngộ độc thức ăn, say rượu...
Hiện nay, trên thị trường thế giới đă có bán nhiều
loại nấm Linh Chi của Nam Hàn, Nhật Bản, Trung Quốc, kể cả của Mỹ...
sản xuất, tuy nhiên giá thành rất cao. Một kilô nấm
Linh Chi khô có giá xê dịch từ 50 đến 100 Mỹ kim, tùy
theo chất lượng. Hiện nay, ở nhiều nước như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,...
đă sản xuất Linh Chi theo phương pháp nuôi trồng nông nghiệp. Tuy nhiên chất
lượng của nấm c̣n phụ thuộc vào việc nuôi trồng nấm trên loại gỗ ǵ, chủng loại
nấm cũng như thời gian thu hoạch. V́ vậy, không phải
ngẫu nhiên mỗi năm Nhật Bản thu được 350 triệu USD từ nấm Linh Chi cũng như các
chế phẩm của nó. Ngay cả Trung Quốc được coi là nước sản
xuất nấm Linh Chi lớn nhất trên thế giới thế mà vẫn có nhu cầu nhập thêm để sử
dụng. Ở Nhật Bản, giá 1kg nấm Linh Chi khoảng 200-350 USD, ở Nam Hàn 100
USD, ở Đài Loan có người đă phải mua tới giá cao hơn gấp 10 lần, tức từ 3.000 -
8.000 USD.
Nguyễn Duy Chính
Các nguồn tài liệu khác về Nấm
Linh Chi
Linh chi tác
động đến sức khỏe như thế nào?
Tuy được xếp vào nhóm
thuốc bổ thượng phẩm nhưng nấm linh chi không có chất đạm cần thiết cho
cấu trúc của tế bào, không chứa chất cải thiện chức năng tiêu hóa, cũng
không mang hoạt chất có tính an thần.
Không phải chỉ đến khi Tần Thủy Hoàng
phái ngự y Lư Sinh t́m thuốc trường sinh bất tử ở biển Đông th́ linh
chi mới có mặt trong lịch sử y học. Từ nhiều ngàn năm nay, linh chi
chiếm vị trí cao nhất trong cổ thư Trung Quốc. V́ thế, nó không c̣n xa
lạ với thầy thuốc bốn phương và từ lâu đă có tên chính thức trong dược
điển của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... như một phương thuốc trị ung
thư
Không chỉ được trọng dụng ở Á Đông,
linh chi hiện là một trong những đề tài nghiên cứu và ứng dụng nóng
bỏng của ngành y dược Âu Mỹ. Y học phương Tây ắt hẳn phải có động cơ
chính đáng khi t́m về một dược liệu ở bên kia chân trời.
Tuy được xếp vào nhóm thuốc bổ thượng
phẩm của Trung y nhưng giá trị bổ dưỡng của linh chi không đồng nghĩa
với tác dụng kiến tạo kiểu “vai u thịt bắp” mà miếng thịt hay quả trứng
mang lại. Đă có không biết bao nhiêu người sử dụng linh chi cảm thấy
khỏe hơn, ăn ngon, ngủ yên; nhưng khi phân tích th́ linh chi không có
chất đạm cần thiết cho cấu trúc của tế bào, không chứa chất cải thiện
chức năng tiêu hóa, cũng không mang hoạt chất có tính an thần. Khả năng
nâng đỡ tổng trạng của linh chi là một thực tế không thể chối căi,
không chỉ căn cứ vào cảm giác chủ quan của người bệnh, mà dựa trên các
tiêu chuẩn khoa học khách quan với định lượng rơ ràng, theo kết quả của
hàng trăm công tŕnh nghiên cứu tại nhiều học viện từ Á sang Âu. Nếu
vậy, linh chi tác dụng theo cơ chế nào?
Cấu trúc độc đáo của linh chi chính
là thành phần khoáng tố vi lượng đủ loại, trong đó một số khoáng tố như
germanium, vanadium, crôm... Chúng đă được khẳng định là nhân tố quan
trọng cho nhiều loại phản ứng chống ung thư, dị ứng, lăo hóa, xơ vữa,
đông máu nội mạch, giúp điều chỉnh dẫn truyền thần kinh, bảo vệ cấu
trúc của nhân tế bào. Có căn bệnh nào hiện nay thoát khỏi ảnh hưởng của
các yếu tố bệnh lư vừa kể?
Với
thành phần độc đáo như vừa tả, linh chi phục hồi cơ thể bằng cơ chế tác
dụng gián tiếp. Trái với chức năng cung cấp dưỡng chất
theo kiểu “thiếu th́ bổ sung” của các loại thuốc bổ thông thường, linh
chi hữu ích cho cơ thể nhờ chọn con đường vận hành khéo léo và linh
động hơn nhiều qua kiểu đ̣n bẩy. Nó một mặt thanh lọc cơ thể toàn diện
và đồng bộ qua tác dụng lợi tiểu và lợi mật, một mặt kích thích nhiều
chuỗi phản ứng sinh hóa trong cơ thể nhờ vai tṛ xúc tác của khoáng tố
vi lượng. Linh chi khéo léo đánh thức sức đề kháng của cơ thể để từ đó
điều chỉnh các rối loạn chức năng, làm lành các tổn thương cơ quan,
phục hồi hệ miễn dịch. Một khi hội đủ 3 điều kiện vừa kể th́ cơ thể rất
khó bệnh, con người chậm già. Người xưa đâu có quá lời khi xếp linh chi
vào nhóm thuốc cải lăo hoàn đồng!
Nếu dựa vào hàng trăm báo cáo chuyên
đề trong các hội nghị quốc tế về hiệu quả của linh chi th́ vấn đề đặt
ra “linh chi có tác dụng hay không” quả là thừa. Nếu căn cứ vào con số
bệnh nhân từ Đông sang Tây đă và đang được điều trị rất hài ḷng với
linh chi, th́ mọi thắc mắc về cơ sở khoa học của linh chi không c̣n cần
thiết. Nhưng có một điều chắc chắn: Linh chi không phải là thần dược
giúp sống lâu trăm tuổi, trẻ măi không già như quảng cáo hoặc ảo vọng
của bạo chúa họ Tần. Trên nền tảng tri thức khoa học, nếu biết cách áp
dụng linh chi, đó sẽ là một trong các phương tiện hữu hiệu và an toàn
để tăng cường sức đề kháng cơ thể trong cuộc sống đầy căng thẳng và ô
nhiễm môi trường nặng nề của thế kỷ 21.
Vấn đề cuối cùng, đó là liệu linh chi
Việt Nam có tác dụng không hay phải là linh chi nước ngoài th́ mới nên
thuốc? Một câu hỏi hoàn toàn có lư, v́ không phải linh chi nào cũng là
thuốc và điều trăn trở của người bệnh chính là làm sao t́m được linh
chi có chất lượng.
4 tiêu
chuẩn chọn linh chi
Nên dùng linh chi được gieo trồng
chuyên nghiệp v́ chất lượng ổn định, bảo đảm hiệu quả và không có phản
ứng phụ bất lợi. Trái với quan niệm của nhiều người, linh chi mọc hoang
lại không an toàn, v́ hiện nay con người khó kiểm soát được sự ô nhiễm
môi trường.
Chỉ nên mua linh chi có nguồn gốc,
xuất xứ rơ ràng. Đừng xuôi ḷng trước những quảng cáo đường mật như
linh chi... trên rừng, trên núi.
Linh chi chất lượng tốt th́ hai mặt
không bị mọt, mặt dưới có màu từ vàng chanh nhạt đến trắng. Mặt dưới
linh chi có màu vàng nghệ thường không tốt, v́ đó không phải là màu tự
nhiên của nấm.
Nếu dùng linh chi nấu nước uống, nên
chọn nấm có kích thước vừa phải, đường kính 8-20 cm. Ở kích cỡ này, nấm
chưa bị hóa gỗ hoàn toàn, hàm lượng các hợp chất polysaccharide và
triterpen c̣n cao nên dễ ly trích khi nấu trong nước. Các công ty dược
phẩm trên thế giới khi chiết xuất hoạt chất của linh chi để sản xuất
dược phẩm cũng chỉ dùng nấm theo tiêu chuẩn trên.
(Theo Người Lao Động)
Thứ bảy, 15/12/2007, 13:13 GMT+7 |
|
|
|
Nấm linh chi có thể chữa
ung thư tuyến tiền liệt
|
Một ca mổ u tuyến tiền liệt. Ảnh: AFP |
Các nhà khoa học ở Đại học Haifa, Israel khẳng định
nấm linh chi - một loài nấm dại thường dùng trong Đông Y ở Trung
Quốc (và Việt Nam) - có thể chữa ung thư tuyến tiền liệt.
Nhóm nghiên cứu đă phát hiện các phân tử trong
nấm linh chi (tên khoa học là Ganoderma lucidum) giúp ngăn cản một
vài cơ chế liên quan đến sự phát triển của khối u ở bộ phận này.
"Chúng tôi biết rằng loài nấm này có thể cản trở
sự phát triển của khối u bằng cách tác động lên hệ miễn dịch. Nhưng
các thử nghiệm trong ống nghiệm mà chúng tôi đă làm cho thấy nó
trực tiếp tấn công vào tế bào ung thư", trưởng nhóm nghiên cứu Ben
Zion Zaidman nói.
"Kết quả này mở ra hy vọng phát triển các loại
thuốc chữa ung thư tiền liệt tuyến", ông cho biết.
Nghiên cứu hiện mới dừng lại ở trong các đĩa thí
nghiệm. Họ sẽ tiếp tục thử nghiệm trên động vật.
Nấm linh chi thường sống ở các vùng hoang dă xa
xôi, trên các thân cây mận đang phân huỷ, đôi khi là trên cây sồi,
trong những rừng rậm.
Ung thư tiền liệt tuyến là một trong những dạng
ung thư phổ biến nhất ở đàn ông, với hơn 543.000 người được chẩn
đoán mỗi năm trên toàn thế giới.
T. An (theo
AFP |
Tác dụng y dược của Nhân Sâm
Năm
1833, giới y học dành cho nhân sâm một chỗ đứng trong bảng phân loại dược thảo,
với tên khoa học là Panax. Từ Hy Lạp
pana có nghĩa “tất cả”, c̣n axos có nghĩa là “chữa trị”. Do một sự trùng hợp thú
vị, từ panax với từ panacae (thuốc trị bách bệnh) có cùng một nguồn gốc. Một văn
bản y học Trung Hoa cổ vào thế kỷ V có liệt kê những tác dụng trị liệu của nhân
sâm: tăng cường sức mạnh của nội tạng (gan, thận, tim, phổi, tuyến tụy) có tác
dụng an thần, chống lại mệt mỏi, suy nhược, nhức đầu, kiệt sức, đổ mồ hôi, tăng
cường sức đề kháng với viêm nhiễm và bệnh tật, tăng cường thị lực và khả năng
hoạt động tinh thần, kéo dài tuổi thọ... Mới đây, một cuộc nghiên cứu khoa học
đă bổ sung cho nhân sâm nhiều tác dụng mới: cấu tạo hồng cầu, bảo vệ cơ thể
chống lại chứng thiếu máu, huyết áp thấp, bệnh tim, gia tăng sự tiết dịch của cơ
thể chống lại bệnh tiểu đường, b́nh thường hóa hoạt động của phổi, tăng cường hệ
thống dạ dày - ruột, ngăn ngừa bệnh tiêu chảy, táo bón, pḥng ngừa sự sưng tấy,
viêm nhiễm và những bệnh về da, kích thích tiết hormone để tạo dễ dàng cho việc
điều trị các bệnh phụ khoa như đau bụng lúc hành kinh, những triệu chứng của
tuổi măn kinh. Gần đây nhứt, những thử nghiệm lâm sàng tiến hành tại Nhật trên
những người mắc bệnh ung thư (đă qua nhiều lần chiếu tia X và hóa liệu pháp) cho
thấy nhân sâm giúp bệnh nhân b́nh phục nhanh, làm gia tăng cơ may sống sót của
họ bằng cách khử độc gan và phục hồi khả năng thanh lọc độc tố trong máu của bộ
phận này.
Một câu hỏi được đặt ra là làm thế nào giải thích
được những tác dụng trị liệu kỳ diệu đó của nhân sâm?
Trong Tây y, vẫn c̣n một số người xem thường nhân sâm, coi đó như sự lừa bịp của
hai thiên niên kỷ tiền khoa học đầy chuyện lố lăng.
Tuy thế, nhiều thầy thuốc và nhà nghiên cứu được đào luyện
theo Tây y vẫn công nhận tác dụng bồi dưỡng và trị liệu của nhân sâm. Họ
đưa ra những lời giải thích về hóasinh, chiết xuất các thành phần của nhân sâm
và đặt cho chúng những cái tên đầy tính... nhân sâm: ginsenoside, panaixin,
panquilan... Họ nghiên cứu tác dụng của chúng với hệ nội
tiết, hệ tuần hoàn và sự sinh sản chất tủy xương. C̣n
đối với đa số người Á Đông tin tưởng vào công hiệu của nhân sâm th́ nguồn gốc
sức mạnh của nhân sâm nằm ở... đất. Khoa vũ trụ học của người Trung Hoa
cổ coi toàn bộ vũ trụ bị chi phối bởi một sinh lực gọi là chi. Sinh lực này tập
trung dưới ḷng đất và giải thích tại sao người Trung Hoa và người Cao Ly xưa
rất quan tâm đến nơi tống táng những người thân. Họ tin rằng xương cốt của tổ
tiên, cha mẹ họ được tống táng ở vùng đất tốt sẽ giúp cho họ thành đạt trong
cuộc sống. Chính điều này giải thích nguồn gốc sức mạnh của nhân sâm...
Ở Cao Ly, những người dân sơn cước chuyên t́m sâm
được gọi là Shimmani.
Trong tiếng Đại Hàn cổ, Shim có nghĩa là nhân sâm, c̣n maini
trong tiếng Phạn có nghĩa là to lớn. Shimmani là những con người lăng
mạn, hào hùng, việc làm của họ được ghi nhận trong
nhiều huyền thoại và chuyện kể dân gian. Trước khi đi t́m
nhân sâm, họ phải tẩy sạch cơ thể bằng cách tắm trong những khe suối trên núi
cao và cầu nguyện Sanshil-Ryung (thần núi). Họ tin rằng chỉ có một tấm
ḷng trong sạch mới đưa họ đến với nhân sâm. Họ cũng phải tránh giao hợp với phụ
nữ, không ăn những con thú bốn chân và không giết
chết bất cứ một sinh vật nào. Rồi họ kiên tŕ chờ thần núi
hiện ra trong mơ và chỉ cho họ nhân sâm ẩn kín nơi nào trong núi. Khi
được sự hướng dẫn của Thần núi, các Shimmani đi t́m sâm vào ban đêm, định vị sâm
nhờ ánh hào quang của nó phát ra và dùng một cây gậy đánh dấu nơi có sâm.
Sáng hôm sau, sau một loạt nghi thức để cảm tạ thần núi, họ
bắt đầu đào lấy củ sâm, một công việc hết sức tinh tế để tránh làm tổn thương,
dù là một sợi rễ nhỏ nhất. Xong việc, các Shimmani
đặt củ sâm đào được trong một chiếc hộp bằng gỗ và đi xuống núi, tránh không nói
chuyện với ai. Có một điều cấm kỵ, đó là các Shimmani không được mang
theo bất cứ thứ vũ khí nào trừ gậy, dù họ dễ dàng bị
thú dữ hay bọn cướp rừng đe dọa. Bù lại, nếu thoát được
những hiểm nguy trong hành tŕnh đi t́m sâm, các Shimmani sẽ được tưởng thưởng
xứng đáng với công sức bỏ ra. Chỉ cần bán một củ sâm hàng trăm năm tuổi
c̣n nguyên vẹn, một Shimmani có thể nuôi sống cả gia đ́nh một năm liền. Do nhu
cầu về nhân sâm ngày càng tăng cao mà các Shimmani mỗi ngày phải đi xa hơn trong
rừng sâu mới có sâm, nên ngày nay phần lớn sâm trên thị trường nội địa tại Nam
Hàn hay xuất khẩu ra nước ngoài đều là sâm do con người trồng trọt. Để tránh cho
cây sâm không phải tiếp xúc trực tiếp với mưa, nắng và gió, các nông gia Nam Hàn
trồng chúng dưới những nhà lợp tranh xếp thành từng hàng dài, nhất là ở đảo
Kanghwa. Sâm trồng cần từ 4 đến 6 năm để trưởng thành.
Chúng hút hết mọi chất dinh dưỡng từ đất đến mức hàng chục năm sau khi
thu hoạch xong, không có loại cây nào c̣n có thể sinh
sống được trên đất đă trồng sâm.
Nguyễn Duy Chính
HC sưu tầm
|