Trầm Bổng Chuông Ngân
Hạt Cát
Long lanh sương tụ ngọc,
Thanh thoát một hồi chuông.
B́nh minh chim thức giấc,
Bảng lảng hồn muôn phương.
Gần đây, khi làm việc một ḿnh trong pḥng vắng canh khuya, tôi
thường hay nối kết vào trang nhà Thiền Tông Việt Nam để nghe ba
tiếng chuông ngân nga trầm bổng. Cũng không biết tại sao tôi lại
thích nghe mấy tiếng chuông nàỵ
Hàng tuần tôi vẫn đến chùa lễ Phật, vẫn nghe đều đều tiếng mơ tiếng
chuông, vậy mà những tiếng chuông tôi nghe ở chùa đă không lưu lại
ấn tượng trong tôi nhiều như tiếng chuông mà tôi nghe được nơi trang
Thiền Tông.
Có lẽ tiếng chuông ở chùa vang lên trong một khung cảnh mà con người
bị chi phối ít nhiều bởi môi trường chung quanh. Dù mọi người đều
trang nghiêm lễ lạy không ai nói với ai lời nào nhưng h́nh như âm
thanh của tiếng chuông vừa vang lên đă bị lấn át bởi những tiếng
động khác hoặc bởi va chạm với quá nhiều vật cản.Thỉnh thoảng vào
các ngày lễ lớn, nhà chùa cũng có thỉnh mấy hồi chuông trống Bát
Nhă, tiếng chuông trống trầm hùng ngân vang cũng khiến ḷng người
nao nao xúc động nhưng cảm giác đó hoàn toàn không như cảm giác khi
t́nh cờ nghe một tiếng chuông thong thả ngân vang lúc ḿnh đang làm
một điều ǵ đó. Tiếng chuông không chờ không đợi,ta nghe nó một cách
hững hờ — mà để lại những ấn tượng khó phai trong kư ức ta .
Tiếng chuông đó gợi cho tôi một cảm giác thân thương êm đềm mà có lẽ
đă từ lâu tôi không c̣n bắt gặp.Tiếng chuông dường như đưa tôi đi về
một vùng trời bồng bềnh mây trắng chiều hôm, có nắng mông mênh phai
vàng nhè nhẹ, có gió mơn man hai hàng tre trúc biếc xanh thấp thoáng
mảnh trời trong vắt ở một chốn quê êm ả cuối ngàỵ Tiếng chuông tan
loăng trên đầu cây ngọn cỏ sương khói chập chờn cô liêu man mác như
những lời thơ chan chứa màu quê.
渡江
幽煙蒼竹雜歸人
高底鐘聲薄暮雲
遠去關山啁哳鳥
呷茶慢慢渡江津
Độ giang
U yên thương trúc tạp quy nhân,
Cao để chung thanh bạc mộ vân.
Viễn khứ quan sơn trù triết điểu,
Hạp trà mạn mạn độ giang tân.
(Hạt Cát)
Qua sông
Em về ngơ trúc xanh xanh
Chuông ngân mây trắng mong manh chiều tà
Chim bay ríu rít quan hà
Thong dong hớp một ngụm trà qua sông
Đang thơ thẩn đếm bước trên đường ṃn xóm vắng chiều quê,rồi không
dưng nghe được một tiếng chuông thong thả vang lên, hỏi ḷng ai
không xúc động rưng rưng. Cả đất cả trời dường như lắng động mà
quyện lấy cái âm ba ngân vọng chơi vơi ấỵ Bầy chim vừa tung cánh ríu
rít bay lên dường như cũng đang vỗ cùng nhịp điệu bổng trầm của
tiếng chuông về một phương trời thăm thẳm nàọ C̣n ta, đi hết lối ṃn
xóm quê, ghé vào quán cốc bên đường, hớp một ngụm trà, lắng nghe
không gian tĩnh mịch, ta ung dung đợi chuyến đ̣ sang … Ôi !Tiếng
chuông ngân thanh thoát trong một buổi chiều quê! Nhớ thương sao
trời đất, âm thanh thuở đó.
Chuông ngân vàng sóng lúa,
Sương khói đọng hoàng hôn.
Bồng bềnh mây du tử,
Hiu hiu ḷng nước non.
Tiếng chuông đưa tôi về những đêm rằm tịch lặng, thơm ngát hương
trầm, pha lẫn ngọc lan,dạ lư.Tôi nằm ngủ lơ mơ dưới chân Phật Bà,
trong Quan Âm Các lộ thiên lồng lộng trời mâỵ Hít thở không khí thơm
lành, nghe tiếng chuông ngân văng vẳng bên taị Không gian ấy, thời
gian ấy sao mà êm đềm và chậm răi b́nh yên biết baọTiếng chuông ngân
nga trong giấc ngủ lơ mơ mới thật là kỳ thú, một cảm giác an lành
tan loăng trong gió nhẹ thoảng hương tạo ra một thứ không gian trầm
tịch vi diệu, tôi đắm ḿnh trong giấc ngủ mơ màng, trong không gian
trầm tịch đó.
Đêm thẳm t́nh mây gió,
Man mác trăng ngọc lan.
Khói trầm thơm tiếng kệ,
Sâu lắng hồi chuông tan.
Thuở ấy tôi chỉ là một con bé 7,8 tuổi đầụ Đối diện với nhà tôi,
cách một khoảnh vườn và quốc lộ 13 là một ngôi chùa nhỏ. Vườn chung
quanh chùa nằm sát quốc lộ, rộng vài ba sào đất. Trong vườn trồng
vài loại cây ăn trái, bốn bên có rào có cổng. Mặt tiền chùa hướng ra
đường, chiếc cổng dẫn vào khuôn viên chùa nằm sát đường, ở chính
giữa khu đất. Lối đi từ cổng vào độ vài chục thước. Vào tới sân đánh
một cái ṿng cung quanh Quan Âm Các mới đến chánh điện. Hồi đó, tôi
chẳng để ư chi tới chuyện của người lớn nên hoàn toàn mù tịt về lịch
sử của ngôi chùạ Ai lập ra, hồi nào, ai đến ai đi, ai thường hay lui
tới ? Tôi chỉ biết là khi tôi bắt đầu biết nhận thức th́ ngôi chùa
đă nằm ở đấy rồị Gọi là chùa chứ thật ra có lẽ chỉ là một am đường
do ai đó tạo lập cho một bậc trưởng thượng trong gia đ́nh an dưỡng
tuổi già. Bởi tôi vẫn thường hay sang chơi nhưng ít thấy thiện nam
tín nữ nào đến cúng kiến lễ lạy ǵ cả. Chỉ có một vị sư bà,chúng tôi
quen gọi là bà Chín, kinh kệ sớm hôm. Chùa chỉ có một gian. Mái lợp
ngói âm dương, vách ván mỏng tanh. Bàn thờ Phật nằm giữa ngay cửa
lớn ra vào, vách mặt trước phía trái trổ một khung cửa sổ chấn song
nhưng không có cửa để đóng lạị Cạnh cửa sổ kê một bộ ván ngựa gỗ
mỏng, chị em tôi thường hay ngủ trên bộ ván nàỵ Vách phải cũng có
một khung cửa sổ chấn song, một bộ bàn ghế cũ kỹ được kê sát khung
cửạ Sau bàn thờ Phật là hậu liêu được ngăn ra bằng một tấm vách có
hai cửa nhỏ hai bên đi vàọ Phía sau lại có hai bộ ván gỗ nằm hai bên
lối đị Lối đi mở cửa ra sân sau kê đầy lu, ảng chứa nước dọc hàng
hiên. Qua hết mảnh sân con là nhà bếp. Nhà bếp chỉ có mái che và
vách lá ba bên chứ chẳng có cửa nẻo ǵ cả. Ngoài mấy ông ḷ và ít
cái nồi ám khói treo lủng lẳng trên vách, một bộ ván gỗ xấu xí nằm
chỏng trơ, một chiếc bàn tṛn thấp đă nhẵn mặt kê cạnh chiếc tủ lưới
con con, trong có mấy cái chén mấy cái đĩa, chẳng c̣n ǵ khác hơn.
Chùa cũ kỹ, nhưng có lẽ Quan Âm Các vừa được kiến tạo nên hăy c̣n
mới mẻ lắm. Mái lục giác lợp ngói lưu ly xanh biếc che phía trên,
tượng Phật Bà Quán Âm cao gấp rưởi người thật, trắng muốt, đứng trên
ṭa sen, tay cầm b́nh nước Cam Lộ và nhành dương, mái cũng khá rộng
trụ trên 6 cái cột to, chung quanh chân cột có xây bệ đá lên cao chỉ
chừa khoảng trống cho lối đi vào ở phía trước và phía saụ Nền nhà
được nâng khỏi mặt đất, có bậc tam cấp đi lên và lát gạch bông mát
rượi, thừa thăi chỗ cho hai chị em tôi tha hồ lăn săi trên tấm chiếu
trải sau lưng tượng. Trên bệ đá và chung quanh chân cột chưng bày
mấy chậu hoa, kiểng. Có hoa ngâu, hoa chùm nụm, hoa dạ lư, hoa lài,
nguyệt quế, hoa mười giờ, hoa móng tay, hoa vạn thọ. Trong các loại
ấy tôi thích nhất là hoa dạ lư. Dạ lư có lá nhỏ như lá cây chùm nụm,
hoa trắng, cánh li ti và nhọn hơn hoa mai rất nhiềụ Ban đêm hương
bay phảng phất ngọt ngàọ Có lẽ v́ vậy nên ngườI ta gọi là hoa dạ lư
hương chăng? Khoảng sân bên hông chùa c̣n có một cây ngọc lan rất tọ
Hai chị em tôi thường len lỏi trong mấy lùm cây ăn trái, t́m đến cây
ngọc lan để hái hoa dâng lên cúng Phật. Hoa ngọc lan hay gọi nôm na
là hoa sứ, từng búp hoa trắng muốt nơn nà như ngón tay con gái, tỏa
ra một mùi thơm thoang thoảng . Các cô gái vườn quê thuở đó muốn
…điệu đà thường hay hái hoa ngọc lan cài vào mái tóc. Người ta vẫn
thường hay nói hoa dạ lư và hoa ngọc lan sống lâu năm sẽ có tinh
linh cho nên mấy loại cây đó ưa được trồng trong sân chùạ
Tôi cũng không nhớ rơ v́ đâu, dạo ấy hai chúng tôi được lệnh sang
chùa ngủ …cho có bạn với sư bà. Chiều chiều, chị hai tôi và tôi ăn
cơm xong là chúng tôi ôm cặp chạy qua . Hồi ấy tôi học lớp Tư hay Ba
nên bài vở không nhiềụ Học bài xong, trời chiều hăy c̣n sáng. Trong
khi chị hai tôi lịu địu trong hậu liêu với sư bà hoặc học bài của
chị th́ tôi hay thơ thẩn trong vườn chùa dưới mấy gốc cây ăn tráị
Như ổi, xoài, phù quân. Hồi đó tôi mê trái phù quân lắm. Cái vị chua
chua ngọt ngọt của nó hấp dẫn tôi hơn trái trứng cá và chùm giuột.
Tôi cũng ưa săm soi mấy chậu hoa, kiểng và đi lang thang trên lối
sỏi quanh Quan Âm Các. Có lúc tôi ngồi bệt xuống chân cột Quan Âm
Các, mê mẩn ngắm vạt nắng cuối ngày le lói chiếu lên mấy cụm mây
trôi lăng đăng trên nền trời trong vắt biếc xanh và tôi mường tượng
rằng tiếng chuông của sư bà cũng đang chập chờn bềnh bồng trong
những cụm mây ấỵ Tôi thả hồn theo chuông, theo mây tưởng tượng ra
những chân trời xa lạ có bà Tiên từ ái áo trắng thướt tha, có nàng
công chúa đẹp tuyệt trần đang nằm ngủ say chờ phép nhiệm màu, v.v…
Lúc ấy, bao nhiêu nhân vật tôi ưa thích trong truyện cổ tích đều
được tôi cho trôi nổi bềnh bồng theo mây hết cả. Khi trời tối hơn
chút nữa, chúng tôi đem chiếu ra trải trong Quan Âm Các nằm ngắm
trời trăng mây gió và nói chuyện tào laọ Tôi thích nhất là vào những
đêm rằm, nằm ngắm mặt trăng tṛn dành dạnh treo lơ lững trong khoảng
không gian huyền hoặc lấp lánh ánh saọ Cái trí óc bé bỏng của tôi
lúc bấy giờ lại đầy ắp những câu chuyện thần tiên. Nh́n ánh trăng
loang loáng chiếu xuống cây cành trong vườn tôi cứ tưởng chừng như
có ai đem tráng một lớp ngân nhũ lên trên ngàn lá, tưởng chừng như
tôi cũng đang là một cô tiên bé bỏng dạo chơi trong vườn Thượng Uyển
của bà Tây Vương Mẫu ở cung Giao Tŕ. Nằm ở đấy, tha hồ cho tôi hít
thở không khí thơm lành đầy hương vị nhà thiền mà thuở đó tôi nào có
biết. Nằm ở đấy, tôi nghe tiếng chuông ngân nga ḥa lẫn tiếng dế
giun ru êm trong đêm thâu tĩnh mịch cho đến khi ngủ lơ mơ. Tôi biết
là tôi chỉ ngủ lơ mơ thôi, bởi v́ khi đêm hôm chầm chậm đi vào sâu
lắng hơn th́ sư bà sẽ đánh thức, bắt chúng tôi dậy vào bên trong.
Thường th́ chúng tôi bỏ mặc chiếu ở đấy, mắt nhắm mắt mở chạy a vào
bộ ván gơ kê phía trước leo lên ván tiếp tục mơ màng. Mọi vật trầm
lắng, tĩnh mịch hơn. Không khí quanh tôi phảng phất hương huyền đàn
lẫn với hương hoa ngoài cửa sổ hắt vàọ Tôi đắm ch́m trong giấc ngủ
cho đến lúc lại chập chờn trong tiếng chuông khuya .
Chuông khuya vang trầm bổng,
Chân vọng tiếng ngân dàị
Ḷng nhân gian chợt mở,
Quên sạch nỗi trần aị
@@@
Thời gian ấy quả thật rất êm đềm đối với tôi, tôi cứ ước ao sao mỗi
ngày đều được như thế. Nhưng rồi chuyện sang ngủ đêm bên chùa của
chị em tôi chỉ kéo dài đâu được đôi ba tháng cho đến khi gia đ́nh
chúng tôi phải dời đổi chỗ ở xa hơn. Và rồi thời gian lại trôi qua
một cách t́nh cờ, càng lớn lên, càng bận rộn với nhiều việc linh
tinh khác. Tôi xa dần khung cảnh mái chùa xưạ Trong giấc mơ của tôi
nhiều năm sau này vẫn hay thấy lại khung cảnh ngôi chùa nhỏ bé ấỵ
Tận thâm tâm, tôi biết đó là ngôi chùa cho tôi nhiều cảm xúc êm đêm
tuổi thơ. Nhưng trong giấc mộng tôi không t́m thấy được những h́nh
ảnh cũ, quá nhiều thay đổị Hoa kiểng trong sân không c̣n được chăm
chút xinh xắn gọn gàng ngăn nắp nữạ Thay vào đó là cây cối rậm rạp
um tùm, Quan Âm Các và tượng Phật Bà biến đi đâu mất.
Tháng ngày chồng chất, tôi lớn lên lại đi biền biệt quê ngườị Biết
bao năm tha hương đất khách, dù rằng tôi cũng có tham gia sinh hoạt
tại ngôi Phật tự địa phương nhưng tôi thực sự chưa bao giờ nghe
tiếng chuông ngân vang thong thả nào khơi động ḷng hoài niệm của
tôị Nhớ nhà nhớ quê tôi t́m về nguồn cảm hứng thi ca, văn chương
hoài cổ, tôi ṭ ṃ t́m kiếm những âm ba quen thuộc của tiếng chuông
và tôi bắt gặp ít nhiều tiếng chuông đồng cảm nhưng vẫn thấy những
tiếng chuông ấy không trọn vẹn, dường như thiêu thiếu một cái ǵ.
Điều đó cũng dễ hiểu, tôi làm sao có thể t́m lại được khung cảnh và
tâm thức như thời xa xưa bé bỏng kiạ Nhưng mà rồi, tôi vẫn mơ, mơ
một ngày nào được nghe lại tiếng chuông thời thơ ấu ấỵ Cho đến lúc
gần đây,t́nh cờ tiếng chuông của trang nhà Thiền Tông đă dẫn dắt tôi
đi về chốn cũ và nhắc nhở tôi ít nhiều dư âm những tiếng chuông xưạ
>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>
Xưa thật là xưa…Ta hăy lắng nghe tiếng chuông của Thi Phật Vương Duy
đời Đường khi ông về vui thú cỏ cây ở Vơng Xuyên.
Là một trong ba đại thi hào lừng lẫy vào thời đại hoàng kim của thi
ca Trung Quốc và cả thi ca nhân loại, lại là một mệnh quan triều
đ́nh, đồng thời cũng là một cư sĩ, tiếng chuông của ông nhẹ nhàng
thanh thoát và cũng mộc mạc giản dị vang lên giữa xóm làng yên ả
chiều hôm mây trắng mênh mông, núi xa man mác, lăo ngư ông tiều lác
đác về thôn. Mây trắng, mây và mây, mây trên núi chiều vàng lăng
đăng, mây bàng bạc che kín cửa sài khiến ḷng người lâng lâng thoát
tục. Mặc ai xa mă náo nhiệt phồn hoa, ông thong dong ngày tháng với
cỏ cây hoa lá. Lăng thảo Dương hoa, thâm sơn bạch vân, ngư ông tiều
giả, sơn tăng thôn phu v.v…với ông đều là bạn hữụ Ông nghiên cứu
Phật học năm 30 tuổi và học thiền với Thiền Sư Đạo Quang. Ông ăn
chay trường. Thi ca ông chất ngất thiền ngôn, Phật tính nên người
đời sau tặng ông danh hiệu Thi Phật để phân biệt với Thi Tiên Lư
Bạch, Thi Thánh Đỗ Phủ và Thi Quỷ Lư Hạ.
歸輞川作
谷口疏鐘動
漁樵稍欲稀
悠然遠山暮
獨向白雲歸
菱蔓弱難定
楊花輕易飛
東皐春草色
惆悵掩柴扉
Quy Vơng Xuyên tác
Cốc khẩu sơ chung động,
Ngư tiều sảo dục hị
Du nhiên viễn sơn mộ,
Độc hướng bạch vân quỵ
Lăng mạn nhược nan định,
Dương hoa khinh dị phị
Đông cao xuân thảo sắc
Trù trướng yểm sài phi
(Vương Duy)
Về Vơng Xuyên làm (*)
Nhẹ nhàng chuông ngân thung lũng
Ngư tiều lác đác dời chân
Núi xa hoàng hôn lăng đăng
Ngơ về mây trắng mông mênh
Cỏ Lăng mềm mại khó vững
Hoa Dương nhẹ hẩng dễ lên
Bờ đông cỏ xuân thắm đượm
Buồn buồn liếp cửa gài then.
Một tiếng chuông khác cũng vào thời nhà Đường. Đó là tiếng chuông
của Giả ĐảọThời trẻ ông đi thi nhiều lần không đỗ bèn vào chùa làm
tăng ở Lạc Dương, pháp danh Vô Bản, đến kinh đô ngụ ở chùa Thanh
Long. V́ vậy ta không lạ ǵ khi tiếng chuông mà ông Giả nghe được là
tiếng chuông trong đêm tĩnh mịch, non ngàn núi thẳm nơi mái chùa xưa
lẫn khuất đâu đó khi mới sang thụ Nơi mà người thiền nghe dế gáy nỉ
non quanh chỗ ngồi, khỉ vượn chuyền cành ngay trên chốn hạc dừng
chân, tiếng chuông trầm hùng ngân vọng giữa canh khuya tịch mịch
trên sông dường như đă khiến mặt nước rờn rợn sóng xao, màu trăng
bàng bạc trên bến soi rọi khắp cùng thiên địa sáng quá, rơ quá làm
lầu đá kia cũng toát lên một làn hơi lạnh lẽo, làm người và vật
chẳng c̣n phân biệt đâu là chỗ của riêng aị Ai chủ ai khách, đâu dế
đâu người, đâu hạc đâu viên? Cả một không gian im lắng nhưng sống
động nhiệm màu theo tiếng chuông khuya ngân vang trầm bổng. Có chăng
ai nghe được tiếng chuông này mà ḷng không chút rưng rưng ?
早秋寄題天竺靈隱寺
峯前峯後寺新秋
絕頂高窗見沃州
人在定中聞蟋蟀
鶴曾棲處掛猿猴
山鐘夜度空江水
汀月寒生古石樓
心憶懸帆身未遂
謝公此地昔年遊
Tảo thu kư đề Thiên Trúc Linh Ẩn Tự
Phong tiền phong hậu tự tân thu,
Tuyệt đính cao song kiến Ốc Châụ
Nhân tại định trung văn tất suất,
Hạc tằng thê xứ quải viên hầụ
Sơn chung dạ độ không giang thuỷ,
Đinh nguyệt hàn sinh cổ thạch lâụ
Tâm ức huyền phàm thân vị toại,
Tạ công thử địa tích niên dụ
(Giả Đảo)
Đầu thu gửi về chùa Thiên Trúc Linh Ẩn(*)
Sau trước non ngàn mới vẻ thu,
Cao ngất bên song ngắm Ốc châụ
Người thiền giun dế gáy rỉ rả,
Hạc đậu vượn hầu chuyền lau nhaụ
Hiu hắt nước khuya trầm chuông núi,
Lạnh lùng trăng băi rợp mái lầụ
Nhớ cánh buồm treo ḷng chưa thỏa,
Ông Tạ từng chơi đấy năm naọ
Cùng thời với thi Phật Vương Duy, ta c̣n nghe được một tiếng chuông
khác của Mạnh Hạo Nhiên. Mạnh Hạo Nhiên cũng là một đại thi hào của
thời Thịnh Đường, là người mà cả Vương Duy, Đỗ Phủ, Lư Bạch đều kính
trọng. Ông chuộng khí tiết nên hầu hết cuộc đời ẩn cư ở Lộc Môn. Thi
ca của ông chan ḥa h́nh ảnh u cư của người ẩn dật.
Tiếng chuông chùa núi văng vẳng hư không trên đường về Lộc Môn trong
buổi chiều tà đă khơi dậy nỗi niềm bát ngát của thi hào Mạnh Hạo
Nhiên. Bến Ngư Lương kẻ qua người lại tranh nhau ồn áo náo nhiệt đă
chẳng ảnh hưởng ǵ đến tâm t́nh của người ưa thanh nhàn u tịch, bởi
v́ ở Lộc Môn đă có vầng trăng bàng bạc chiếu soi đầu cây ngọn cỏ
sương khói lững lờ đang chờ ông. Lộc Môn ấy là chốn ẩn cư tịch mịch,
cửa đá nẻo tùng quanh năm quạnh quẽ chỉ đón nhận bước chân của khách
ưa chuộng thói tiêu dao tự tại lui tớị
夜歸鹿門山歌
山寺鳴鐘晝已昏
漁梁渡頭爭渡喧
人隨沙岸向江村
余亦乘舟歸鹿門
鹿門月照開煙樹
忽到龐公棲隱處
巖扉松徑長寂寥
唯有幽人自來去
Dạ quy Lộc Môn ca
Sơn tự minh chung trú dĩ hôn,
Ngư Lương độ đầu tranh độ huyên.
Nhân tùy sa ngạn hướng giang thôn,
Dư diệc thừa chu quy Lộc Môn.
Lộc môn nguyệt chiếu khai yên thụ,
Hốt đáo Bàng Công thê ẩn xứ,
Nham phi tùng kính trường tịch liêu,
Duy hữu u nhân tự lai khứ.
(Mạnh Hạo Nhiên)
Khúc hát đêm về Lộc Môn(*)
Ngày tàn chùa núi tiếng chuông ngân,
Tranh vượt Ngư Lương lắm rộn ràng.
Người theo bờ cát về xóm bến,
Ta cỡi con thuyền xuôi Lộc Môn.
Lộc Môn trăng chiếu ngời cây cỏ,
Bỗng thấy Bàng Công chốn ẩn thân.
Cửa đá nẽo tùng luôn quạnh quẽ
Lui tới dành riêng kẻ chuộng nhàn .
Một thi nhân khác với tiếng chuông vang lên trong nắng hồng sương
mai núi sâu rừng thẳm, đường lối quanh co vào cổ tự vắng vẻ thâm u,
hoa lá che kín cửa thiền khiến khách ngẩn ngơ nh́n lại bốn bề, chỉ
thấy chim chóc rộn ràng với ánh sơn quang, thấy bóng nước trong ao
đầm yên tĩnh lặng lờ chẳng màng chi tới buồn vui nhân thế. Đất trời
tưởng chừng như vắng bặt trong cái vận chuyển không ngừng, nhưng
không phải vậy, tuy thinh không vắng bặt mà đầy ắp diệu âm. Có ai
đồng ư với tôi chăng ? Tiếng chuông vang lên trong không gian tĩnh
mịch ấy cũng là một diệu âm. Đó là tiếng chuông của Thường Kiến,thi
nhân đời Đường trong bài “Đề Phá Sơn tự hậu thiền viện”.
題破山寺後禪院
清晨入古寺,
初日照高林。
曲徑通幽處,
禪房花木深。
山光悅鳥性,
潭影空人心。
萬籟此俱寂,
惟聞鐘磬音。
Đề Phá Sơn tự hậu thiền viện
Thanh thần nhập cổ tự ,
Sơ nhật chiếu cao lâm .
Khúc kính thông u xứ ,
Thiền pḥng hoa mộc thâm .
Sơn quang duyệt điểu tính ,
Đàm ảnh không nhân tâm .
Vạn lại thử câu tịch ,
Duy văn chung khánh âm .
(Thường Kiến)
Đề thiền viện sau chùa Phá Sơn(*)
Sớm mai vào thăm chùa cổ,
Rừng cao chơm chớm nắng hồng.
Lối quanh núi đồi lặng lẽ,
Cỏ hoa che kín thiền pḥng.
Ánh núi ca vui chim chóc,
Bóng đầm chẳng bận tấm ḷng.
Muôn tiếng thinh không vắng bặt,
Chỉ nghe ngân vọng khánh chuông.
@@@
Đấy là một vài tiếng chuông của người xưa trong kho tàng thi ca
Trung Hoạ
Trở về với thi ca hoài cổ Việt Nam ta, ta hăy ghé mắt, lắng tai nghe
một tiếng chuông gần hơn, khoảng vài trăm năm sau Thi Phật nhà
Đường, Vua Phật Trần Nhân Tông đời Trần của Việt Nam tạ Một đấng
quân vương, một bậc hùng tài vĩ lược, một người đă từng nắm trong
tay quyền uy tối thượng, đứng đầu một triều đại làm kinh hồn khiếp
vía đội quân viễn chinh hùng mạnh bậc nhất thế giới vào thế kỷ 13,
đă từng sống trong điện ngọc cung son, rồi sau cùng là Tôn Tổ sáng
lập nên thiền phái Trúc Lâm trên đỉnh Yên Tử vẫn c̣n kế tục cho đến
bây giờ. Thân danh như thế, uy quyền như thế …vậy mà tiếng chuông để
lại trong tâm hồn Ngài, trong thi ca Ngài cũng lại là tiếng chuông
ngân vang trên sông nước chiều hôm bóng tà cỏ áy, trong chốn thâm
sơn tĩnh mịch lá úa hoàng hôn. Tiếng chuông mộc mạc đơn sơ mà giao
ḥa cùng khắp đất trời, có năng lực thẩm thấu tận ngọn nguồn tâm
cảm, có công dụng phá tan ám chướng si mê. Tiếng chuông giản dị như
chân lư thiền " Cơ tắc xan hề khốn tắc miên – “Đói cứ ăn đi, mệt ngủ
liền” của một Thiền Tổ gióng lên hẵn nhiên là ẩn tàng diệu dụng thâm
sâụ
武林秋晚
畫橋倒影蘸溪橫
一抹斜陽水外明
寂寂千山紅葉落
濕雲和露送鐘聲
Vũ Lâm Thu Văn
Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành
Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại minh
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc
Thấp vân hoà lộ tống chung thanh
(Trần Nhân Tông)
Chiều thu làng Vũ Lâm(*)
Suối khe lồng bóng cầu treo,
Long lanh ngấn nước nắng chiều nghiêng soị
Núi non quạnh quẽ lá rơi,
Phôi pha sương khói mây trôi chuông rền.
Và cũng lại là mây, tiếng chuông bao giờ cũng ngân vọng xa xăm,
tưởng chừng như có thể tan loăng ra trong những áng mây bàng bạc
khiến cho mây đă bồng bềnh càng thêm nhẹ tênh, càng thêm bồng bềnh
càng đưa ḷng người phiêu phiêu vô trước.
Tiếng chuông ngân vang từ một ngôi chùa cổ ở thâm sơn cùng cốc phải
chăng nhắc nhở ta rằng nơi sâu thẳm nước non kia dường như đang tàng
ẩn một chân lư huyền nhiệm khó thể kiếm t́m nào đó mà thật ra con
người sống nơi ấy chẳng hề phí công t́m kiếm điều ǵ. Trăng ngàn gió
núi, mây nước trời không, tặng vật của thiên nhiên trước mắt đă là
chân lư muôn đời có sẵn.
Nếu không phải vậy,sao một ông tăng hỏi thiền sư Triệu Châu :
- Chân lư tối thượng là ǵ ?
Và thiền sư trả lời:
- Cây bách trước sân…
諒州晚景
古寺淒凉秋靄外
漁船蕭瑟暮鐘初
水明山靜白鳥過
風定雲閒紅樹疎
Lạng Châu Văn Cảnh
Cổ tự thê lương thu ải ngoại,
Ngư thuyền tiêu sắc mộ chung sơ.
Thuỷ minh sơn tĩnh bạch điểu quá,
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ.
(Trần Nhân Tông)
Cảnh chiều Lạng Châu(*)
Mây thu lạnh lẽo chùa xưa
Thuyền ngư xao xác thoảng đưa chuông chiều
C̣ bay non nước quạnh hiu
Gió yên mây nhẹ liêu xiêu lá hồng.
Tiếp theo tiếng chuông của vua Phật Trần Nhân Tông, tôi t́nh cờ bắt
gặp tiếng chuông của một bậc hào sĩ, giữa ải quan mắng con chớ khóc
lóc theo nhi nữ thường t́nh mà hăy lo gầy dựng nên công nghiệp lẫy
lừng để trả thù nhà nợ nước, là đấng sinh thành của một khai quốc
công thần nhà Hậu Lê - Triều đại khiến quân xâm lược nhà Minh phải
cuốn gói chạy dàị Đó là Nguyễn Phi Khanh, bài thơ này của ông nằm
trong phần phụ lục Ức Trai thi tập do phủ Quốc vụ khanh đặc trách
văn hóa ấn hành năm 1972
Tiếng chuông chiều của Nguyễn Phi Khanh gióng lên ở chốn làng quê.
Nh́n bóng tùng khóm trúc phất phơ. Nâng chung rượu ngắm màu thu man
mác. Trời rộng trăng ngàn, mây cao nhạn tít, lang thang gậy trúc dạo
bước chiều hôm bỗng nghe một tiếng chuông ngân lờ lững. Ḷng nhân
thế chợt lâng lâng quên đi phiền toái, phên trúc khép rồi là cách
biệt nhân gian.
村居
松筠三徑在
歲晚薄言歸
把酒看秋色
攜筇步夕暉
雲空山月出
天闊塞鴻飛
忽聽昏鐘報
呼童掩竹扉
Thôn cư
Tùng quân tam kính tại
Tuế văn bạc ngôn quy
Bả tửu khan thu sắc
Huề cùng bộ tịch huy
Vân không sơn nguyệt xuất
Thiên khoát tái hồng phi
Hốt thính hôn chung báo
Hô đồng yểm trúc phi
(Nguyễn Phi Khanh)
Ở quê(*)
Bóng tùng xanh ba dăy,
Năm hết gửi ít lời
Ngắm thu nâng chén rượu
Chống gậy dạo chiều lơi
Mây cao trăng lấp ló
Trời rộng nhạn chơi vơi
Bỗng nghe chuông chiều vọng
Bảo trẻ gài phên thôị
Và tiếng chuông tiếp theo là của một người họ Nguyễn vốn là con cháu
ngoại tộc họ Trần, người từng một thời oanh liệt giúp nhà Hậu Lê
dựng nghiệp, lừng lẫy với bài B́nh Ngô Đại Cáo, sau mười năm gian
khổ kháng chiến chống quân Minh được liệt vào hạng đệ nhất khai quốc
công thần, được phong tước Quan Phục hầụ Đó là một trong những con
người tài ba lỗi lạc của lịch sử mà năm tháng cuối đời lại bị một
nỗi oan khiên bi thảm trong vụ án Lệ Chi Viên. Nguyễn Trăi là nhà
văn hóa, nhà chính trị, nhà quân sự và một nhà tư tưởng lớn mà cả
cuộc đời đă tận tụy lo cho dân, cho nước.
Tiếng chuông của Nguyễn Trăi trong thời gian này có lẽ là lúc ông đă
về trí sĩ ở Côn Sơn, huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương năm 60 tuổị Phải
chăng đấy là tiếng chuông chùa Côn Sơn, nơi mà Băng Hồ tướng công
Trần Nguyên Đán, ông ngoại nhà thơ đă sống ẩn dật ở đó và cũng là
nơi mà một phần tuổi ấu thơ của ông đă trải quạ
Trai pḥng vắng lặng mưa gió suốt đêm thê lương ảm đạm, gối khách
ngẩn ngơ nghe tiếng mưa rơi giọt giọt đếm canh tàn, nghe khóm trúc
xạc xào cọ vào song cửa, tiếng chuông vang lên trong giấc điệp mơ
màng khiến tâm tư con người không thể an nhiên ch́m vào giấc ngủ say
sưạ Cảnh này t́nh này, u tịch nào hơn, phải chăng đây là một tiếng
chuông cảnh tỉnh, quan trường sớm nắng chiều mưa, phú quư hiển vinh
rồi cũng như mây trôi nước chảỵ Án Lệ Chi Viên chỉ là một cái cớ của
những sự tranh dành quyền lực chốn cung đ́nh thâm sâu bí ẩn. Than ôi
! Công hầu khanh tướng ! Cho dù truyền thuyết rắn báo oán chỉ là một
tấm b́nh phong che đậy những âm mưu chính trị nhất thời nhưng nó
cũng đă soi rơ tính chất vô thường của vạn vật.
聽雨
寂寞幽齋裡
終宵聽雨聲
蕭騷驚客枕
點滴數殘更
隔竹敲窗密
和鐘入夢清
吟餘渾不寐
斷續到天明
Thính Vũ
Tịch mịch u trai lư,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu tao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật,
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.
(Nguyễn Trăi)
Nghe Mưă*)
Mơ màng pḥng trai vắng lặng,
Suốt đêm nghe tiếng mưa rơi
Giật ḿnh xác xao gối khách
Đếm canh từng giọt chơi vơi
Khóm trúc xạc xào song cửa
Chuông ngân mộng mị bồi hồi
Ngâm vịnh chán c̣n chưa ngủ
Nối,ngưng cho đến sáng trời
Gần với thời đại chúng ta hơn, có tiếng chuông của một thi sĩ tiền
bối ảnh hưởng ít nhiều triết lư thiền môn. Cố thi sĩ Quách Tấn (1910
– 1992) là một trong Bàn thành tứ hữu (dân B́nh Định gọi Hàn Mặc Tử
là Long, Chế Lan Viên là Phượng , Quách Tấn là Quy và Yến Lan là
Lân), là người đại diện cuối cùng của trường phái thơ cổ điển Việt
Nam tiếp theo thi sĩ Tản Đà. Tiếng chuông chùa đối vớI ông là một âm
điệu nhu nhă thiêng liêng văng vẳng từ tiềm thức thâm sâu nên tiếng
chuông thường hay trỗi dậy mỗi khi ông trông thấy phong cảnh u tịch
của chùa chiền non nước …
“Trăng lên đồi Trại thủy
Chuông khua ngời âm ba
Bồi hồi mây khóa viện
Sân Bồ đề sương sạ”
Tiếng chuông trong hồn cố thi sĩ Quách Tấn là tiếng chuông mơ hồ
nhận diện một cơi nhân gian hư ảo, chuông đă tạnh rồi nhưng không
gian không ngừng âm ba của tiếng ngân trầm tịch, ngân măi,ngân măi
với gió ngàn mây trắng chiều hôm…
Gió ru hồn mộng thiu thiu
Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non."
Tiếng chuông rơi trong bóng chiều, rơi xuống cơi
ḷng nhân thế khiến tâm hồn con người thêm lăng đăng,niềm mây nước
mênh mông,dạt dào t́nh cố
cựu …
Mây nước nhuốm phong trần
Nơi đâu t́nh cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân."
Chùa cũ, chùa cổ, mái chùa thấp thoáng tỏ mờ trong áng mây trắng
bàng bạc xa xăm của bậc ẩn giả hạc nội mây ngàn tháng ngày phong
nguyệt tiêu dao như hư như thực, tiếng chuông ngân vang như có như
không. Ḱa những ṿng sóng long lanh trên hồ mây biếc liễu, ṿng
sóng hay âm ba của tiếng ngân vang vọng, vang vọng măi ngàn năm. Có
là không mà không cũng không nốt.
Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hồ liễu xanh
Mai chiều chuông đă tạnh
Ṿng sóng c̣n long lanh."
(Giọt trăng – Quách Tấn)
Lại thêm tiếng chuông của một thi sĩ thiền sư hiện đại, tuy bây giờ
ông chẳng phải là một thiền sư đầu tṛn áo vuông như ngày trước
nhưng dù thế nào đi nữa, tiếng chuông trong thi ca, trong tâm hồn
của ông vẫn đầy hơi hướm mê ngộ vọng chân, vẫn bâng khuâng khơi động
tâm tư người ta tới tận cùng sâu thẳm.
Ta hăy nghe tiếng chuông ngân vọng theo sóng nước đêm trăng, màu thu
bàng bạc, một chiếc thuyền con buông lái, trăng và chuông tan loăng
vào nhau đi về cơi xa xăm tịch tĩnh. Hư vô ch́m ngập không gian, đâu
bến đâu bờ ?
Thuyền ai buông lái đêm rằm
Sông thu ngân thoảng chuông trăng ŕ rào …
(Động hoa vàng - Phạm Thiên Thư)
Chao ôi ! Hạt thiên thư ! Hạt thiên thư !Tiếng chuông vang vọng chơi
vơi dần dần thấm đẫm vào từng hạt bụi của thế giới nàỵ Ôi ! hạt bụi
nhỏ nhoi nhưng mà một khi thấm đẫm tiếng chuông ngân nó có khả năng
làm đảo lộn diện mục của vũ trụ, đó chính là nguyên nhân tạo tác nên
nỗi thiên thư bồng bềnh. Có phải thế chăng, hỡi bác Thiên Thư ? (Vạc
rằng hỡi bác Thiên Thư, mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ ?)
Chuông ngân chiều lặng trầm tư
Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng
(Động hoa vàng - Phạm Thiên Thư)
Và sau rốt,nói đến âm ba của những hồi chuông kim cổ mà quên nhắc
tới tiếng chuông Hàn Sơn Tự quả là một thiếu sót lớn laọ
Hàn Sơn Tự là một cổ sát (cảnh chùa xưa) nổi tiếng ở phía Tây trấn
Phong-Kiều thuộc tỉnh Tô Châu,Trung Quốc. Được xây dựng vào niên
hiệu Thiên-Giám đời Lương (502-519) và đă được đặt tên là Diệu Lợi
tự. Về sau chùa được gọi là Phong Kiều tự v́ ở gần cầu Phong Kiềụ
Đến đời nhà Đường v́ có hai thiền sư là Hàn San và Thập Đắc đến trụ
tŕ ở đó nên chùa lại được đổi tên là Hàn San tự. Chùa từ thời đó
đến nay đă trải qua nhiều lần trùng tu nên không c̣n giữ được kiến
trúc ban đầu nữạ Nếu so với các ngôi chùa khác ở Trung Quốc th́ chùa
Hàn San không có ǵ đáng kể về mặt kiến trúc nhưng lại rất nổi tiếng
nhờ có bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế.
Đây, tiếng chuông Hàn Sơn Tự, tiếng chuông trên bến Phong Kiều,
trong ḷng kẻ lữ thứ, đêm dài nằm trên thuyền nghe quạ kêu sóng vỗ,
ngắm đèn chài leo loét sông khuya đắm ch́m trong trăng tà sương lạnh
mà ngậm ngùi thân thế, tất cả những thứ đó phủ trùm lên vạn vật một
cảnh sắc thê lương nhưng tiếng chuông ngân t́nh cờ nửa đêm đă làm lữ
khách ấm lại tấc ḷng cô quạnh, đă khơi dậy hứng thú cho một giai
thoại thi ca c̣n được truyền tụng ngàn năm. Ta hăy lắng nghe tiếng
chuông này với tấm t́nh của một kẻ tha hương linh đinh sóng nước quê
người mới thấm thía hết nỗi niềm của nó.
楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天
江楓漁火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
Nguyệt lạc ô đề sương măn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Bài thơ này đă có rất nhiều thi sĩ tiền bối dịch theo nghĩa chính
rồi, tôi muốn thổi cho nó một luồng gió mới mát mẻ nên xin phóng
dịch lại theo ư riêng gọi là hoài niệm cổ nhân vậỵ
Quạ kêu sương lạnh trăng tà.
Đèn chài giấc muộn la đà bến sông.
Chùa Hàn trầm bổng hồi chuông.
Nửa đêm gọi khách bềnh bồng Cô Tô.
@@@
Trên đây chỉ là một vài tiếng chuông tiêu biểu kim cổ đó đây mà tôi
biết được và nảy sinh niềm cảm khái với nó. Hẳn nhiên là c̣n hằng hà
sa số tiếng chuông khác mà tôi chưa có cơ hội được nghe, v́ vậy
không tránh khỏi điều khiếm khuyết. Nhưng dù thế nào, nói tóm lại,
nhân thế cổ kim đă gióng lên rất nhiều hồi chuông trầm bổng, người
gióng chuông và người nghe không ai giống ai nhưng âm điệu bổng trầm
của tiếng chuông th́ muôn đời không khác.Tâm hồn của nhân gian cao
khiết khinh an th́ tiếng chuông là một âm giai thanh nhă dẫn đưa tới
con đường giải thoát. Tâm hồn đầy si mê sân hận lọc lừa th́ tiếng
chuông là một âm thanh lanh lảnh dụng công thức tỉnh vô minh. Khi
ông Huỳnh Trung Chánh viết rằng: “Tuy thiền tông tuyên bố là " bất
lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền" và phủ nhận mọi h́nh thức lễ
bái, mà tiếng chuông, tiếng mơ, tiếng khánh, tiếng tụng niệm, tiếng
hét… của chư thiền tổ đều hàm chứa một diệu dụng vô song. Theo sơ
tổ, rung động của âm thanh có thể tạo nên những sự rung động sâu xa
nơi tâm thức. Âm điệu tán tụng đúng mức có diệu dụng thức tỉnh kẻ mê
đắm dục lạc, hóa giải tham sân si, trao truyền an lạc. Nhịp mơ khoan
thai phá tan loạn động, hồi trống dồn dập triển khai tinh tấn, và
tiếng chuông thanh thoát nhiệm mầụ Âm ba đặc thù của tiếng chuông :
ngân nga, bàng bạc, trầm sâu, xoáy chuyển, có công năng thẩm thấu
tận đáy nguồn tâm thức, vừa cao vút thông suốt tam thiên, vừa xuyên
thủng cơi u minh địa ngục. Điều đó đă giải thích tại sao, tiếng thác
đổ ầm ỉ, tiếng trời long đất lở, tiếng trống kèn rầm rập của ba
quân… không lay chuyển chư thiền sư trong cơn đại định, nhưng một
tiếng chuông nhỏ lại có diệu dụng thức tỉnh vị ấỵ..” Trong truyện
ngắn Tan Loăng Trong Mây ắt hẳn ông đă chiêm nghiệm được diệu lư đó.
Và như thế,mặc ai nghe ai không nghe, tiếng
chuông vẫn làm đủ bổn phận của nó, vẫn hy vọng rằng một sớm một
chiều nào đó mọi người đều nghe ra tiếng bổng trầm nhu nhă làm chấn
động tâm tư và người ta sẽ nhớ ngẩn nhớ ngơ khi không gian vắng bặt
tiếng chuông.
Cuối cùng xin mượn 4 câu thơ của Thiền Sư Viên Học thời nhà Lư để
kết thúc bài viết tản mạn lan man nàỵ
聞鐘
六識常昏終夜苦
無明被覆久迷慵
晝夜聞鐘開覺悟
懶神靜卻得神通
Văn chung
Lục thức thường hôn chung dạ khổ,
Vô minh bị phú cửu mê dung.
Trú dạ văn chung khai giác ngộ,
Lăn thần tĩnh khước đắc thần thông
(Viên Học Thiền Sư)
Nghe chuông(*)
Sáu trần ám ảnh khổ đêm trường
Tối tăm che lấp măi mơ ṃng
Nghe chuông sớm tối ḷng khai mở
Hết lười th́ sẽ được thần thông
Hạt Cát
(*) Bản dịch Hạt Cát
Sách tham khảo
- Vương Duy chân diện mục – Vũ Thế Ngọc. Eastwest Institute
Press.California 1987.
- Văn học đời Trần – Ngô Tất Tố.
- Văn học đời Lư – Ngô Tất Tố.
- Đường Thi Nhất Thiên Thủ - Lê Nguyễn Lưụ Nhà xuất bản Thuận Hóa
1997.
- Giọt trăng – Quách Tấn. Quê Mẹ Paris 1984.
- Phạm Thiên Thư – Động Hoa Vàng.
- Ức Trai Tập. Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách
-Văn Hoá 1972
|
|