DẤU
HỎI NGĂ
Đoàn Xuân Kiên
Bài được đăng từ trang nhà
Trung Tâm Văn Hóa Xă Hội Việt Nam tại Bỉ quốc.
Như đă tŕnh bày trong một bài
trước đây
[1], một từ tiếng Việt chỉ mang một trong số sáu thanh. Thanh là
yếu tố định bậc cao thấp trong thang âm sáu bậc của tiếng Việt hiện
đại, và là yếu tố cần và đủ để tạo thành ư nghĩa khu biệt của một
từ. Sáu bậc cao thấp đó được cụ thể hoá một cách dễ hiểu bằng sáu
tiếng sau đây: ngang (hoặc không) - huyền -
ngă - hỏi - sắc - nặng. Phân biệt bốn thanh khác không có khó
khăn ǵ, nhưng hai thanh hỏi và
ngă th́ cần nhiều công phu. Từ
nghỉ và nghĩ
chẳng hạn, chỉ khác nhau ở một dấu hỏi hay ngă mà làm nên sự khác
biệt về ư nghĩa của hai từ đó. So sánh hai câu dưới đây để thấy sự
khác biệt giữa hai thanh hỏi và ngă làm nên sự khác biệt ư nghĩa của
từ:
-
Thôi, đừng
nghĩ ngợi làm ǵ cho mệt xác
!
-
Thôi chứ, đă hết giờ
nghỉ mệt rồi !
Cho nên lầm lẫn dấu hỏi ngă trong
những trường hợp như thế sẽ thay đổi hẳn ư nghĩa của từ trong một
câu. Phân biệt dấu hỏi và ngă là một việc tương đối dễ dàng đối với
người nói giọng bắc, nhưng lại là một việc cần thiết cho những ai
nói giọng trung và nam - nghĩa là người phát âm giọng tiếng Việt từ
phía nam Thanh Hoá vào trong vùng tây nam bộ. Đối với những người -
đàng trong - th́ phân biệt hỏi ngă dựa trên phát âm là chuyện khó
chính xác, v́ số từ ngữ tiếng Việt mang dấu hỏi và ngă là một khối
lượng khá lớn
[2]. Do vậy, nếu nắm được một số những quy tắc hoạt động của
thanh hỏi và thanh
ngă th́ sẽ giúp giải quyết những khó
khăn về dấu hỏi - ngă.
Trong bài này chúng tôi cố gắng hệ
thống hoá lại những nét chính của chính tả dấu hỏi ngă trong tiếng
Việt. V́ việc phân biệt hỏi ngă có khác nhau giữa hai loại từ vựng
trong tiếng Việt, chúng tôi sẽ chia bài thành hai phần chính: trước
hết là phân biệt hai nhóm từ vựng trong tiếng Việt, sau đó mới t́m
hiểu cách phân biệt hỏi-ngă trong từng nhóm loại từ vựng này.
NHẬN BIẾT MỘT
TỪ TIẾNG VIỆT
Chúng ta biết rằng từ vựng tiếng
Việt là tập hợp từ những nguồn khác nhau: nguồn thứ nhất là những từ
ngữ rất lâu đời của cộng đồng ngôn ngữ Việt cổ thuộc họ ngôn ngữ Nam
A¨; nguồn thứ hai là những từ ngữ vay mượn từ một ngôn ngữ khác,
hoặc là từ tiếng Hán (tức là tiếng Hoa nói vào đời Hán), hoăc là từ
một ngôn ngữ phương tây gần đây
[3]. Như vậy th́ một từ
tiếng Việt có thể là một từ "thuần Việt" (hay có khi c̣n gọi là
tiếng nôm), cũng có thể là một từ Hán Việt, hoặc là một từ mới vay
mượn từ một ngôn ngữ khác. Mỗi loại từ
trên có những nét tính cách khác nhau về thanh. Nhận biết được một
từ là thuộc nhóm từ nôm hoặc từ Hán Việt sẽ giúp giải quyết được một
số khá nhiều những trường hợp cần phân biệt dấu hỏi ngă. Nhưng làm
thế nào để phân biệt được đâu là một từ thuần Việt và đâu là một từ
Hán Việt hoặc một từ vay mượn ?
-
Từ
thuần Việt trước kia thường gọi
chung đây là những "tiếng nôm", nói trại từ "tiếng nam", tức là
tiếng của người nước Nam - để phân biệt với tiếng nói của người
phương Bắc, tức là người Hán. Đó là những từ có thể chuyển đổi
thanh theo quy luật hài thanh, hoặc là những từ láy âm theo phép
hoà phối ngữ âm. Chẳng hạn, từ nở, nóng,
hỏi là những từ thuần Việt, v́ chúng có thể tạo thành
những từ láy âm: nở nang, nóng nảy, hỏ
han. Một từ như đă, chẳng, dẫu
là những từ thuần Việt, v́ chúng có thể chuyển thanh điệu mà vẫn
giữ nguyên ư nghĩa: đà, chăng, dầu.
-
Từ
Hán Việt là những từ đă vay
mượn từ vốn từ vựng tiếng Hán từ cả gần hai ngh́n năm trước đây,
khi nhà Hán bên Trung Hoa sang đô hộ xứ ḿnh. Số từ Hán Việt đă
chiếm quá nửa số vốn từ của chúng ta hiện nay. Có thể nhận biết
một từ Hán Việt hay không là nhờ mấy cách như sau:
-
Nếu một chữ hay một tiếng
có thể ghép với các tiếng như nhất
(một), hữu (có),
vô (không),
bất (chẳng), th́ từ ấy phải là
từ Hán Việt. Vậy th́ từ nhân, ích,
đạo, b́nh là những tiếng Hán Việt v́ chúng có thể kết
hợp có ư nghĩa với bốn tiếng trên kia:
nhất nhân, hữu ích, vô đạo, bất b́nh.[4]
-
Nếu một chữ hay một tiếng
có nghĩa nhưng không thể đứng một ḿnh làm thành một từ được
mà chỉ có thể làm thành một thành phần của từ mà thôi, th́
đó là một chữ Hán Việt. Ví dụ: những tiếng
quốc (nước),
gia (nhà),
sơn (núi),
hà (sông),
nhất (một),
nhị (hai),& thường chỉ ghép
chúng với một tiếng khác chứ không thể dùng riêng rẽ được.
Chẳng hạn, để nói ư "hai quả núi", người Việt không thể nói
nhị núi hoặc
hai quả sơn; cũng thế, có thể
viết là nhất gia, sơn hà, nhị nhân...
nhưng không thể nói một gia, núi hà,
hai nhân. Vậy th́ những tiếng
quốc, gia, sơn hà, nhân, nhất, nhị là những tiếng Hán
Việt.
-
Nếu gặp một chữ hoặc một
tiếng mà ta không hiểu nghĩa, nhưng ta lại biết rằng chúng
có thể ghép chung với hai từ mà lại có cùng ư nghĩa, th́ đó
là một tiếng Hán Việt. Ví dụ: ta gặp từ
trường sinh mà ta không biết
tiếng trường là ǵ, nhưng biết
là nó ghép chung với hai tiếng khác (trường
dạ, trường kỉ), th́ có thể đoán biết là trường là một
tiếng Hán Việt có nghĩa là "dài"; hoặc là đọc đến mấy chữ
tác nghiệp, ta không hiểu tác là ǵ, nhưng biết là có
sáng tác, tác giả, th́ đoán
biết tác là một tiếng Hán Việt,
có nghĩa đại khái là "làm ra cái ǵ đó".
-
Nếu một tiếng nào đó mặc
dù quen dùng riêng rẽ trong lời nói hằng ngày, nhưng lại
thấy chúng thường ghép trong ít nhất là hai từ Hán Việt, th́
tiếng hoặc chữ đó là một tiếng Hán Việt. Ví dụ: tiếng
học là một từ quen dùng. Tiếng
này có thể gặp trong những từ Hán Việt như
học sinh, đại học, học vị. Vậy
th́ tiếng học là một tiếng Hán
Việt. Thí dụ khác: tiếng chúng
có thể gặp trong các từ Hán Việt như
quần chúng, chúng sinh..., vậy th́
chúng cũng là một tiếng Hán
Việt.
-
Từ
vay mượn: là những từ ngữ vay
mượn từ vốn từ vựng của các ngôn ngữ khác, cụ thể là các ngôn
ngữ phương tây. Từ khi giao tiếp với phương tây đến nay, tiếng
Việt đă đưa vào kho từ vựng của ḿnh những tiếng như xà pḥng,
(áo) sơ mi, xi măng, (dầu) xăng, cao bồi, (trái) bom, phim, (xe)
ô tô, cuốc (xe), (bà) đầm, (bánh) quy, (nhà) băng, két (bạc),
(kinh) xáng. Những tiếng vay mượn này hoặc được phiên âm trực
tiếp từ một từ ngữ phương tây (xi măng <cement>, bom <bombe>,
phim <film>, ô tô <auto>, băng <banque>),
hoặc được đọc trại âm theo lối phát âm của người Việt (xà pḥng
<savon>, sơ mi <chemise>, xăng <essence>,
cao bồi <cow boy>, cuốc <course>, đầm <dame>,
(bánh) quy <biscuit>, két <caisse>, (kinh) xáng <chaland>).
Những tiếng vay mượn này được cố gắng Việt hoá, cho nên cũng
mang tất cả các thanh của tiếng Việt.
DẤU HỎI NGĂ ĐỐI VỚI
TIẾNG THUẦN VIỆT
Một tính cách rất nổi bật của
tiếng Việt là tính cách hoà phối ngữ âm giữa hai thành phần của một
từ kép mà chúng ta thường gọi là từ láy.
Những từ có hai âm tiết láy với nhau khi một hay nhiều thành phần âm
tiết của hai âm tiết đó lặp lại giống hệt âm kia (gọi là điệp âm),
hoặc kết hợp với âm kia theo một trật tự nào đó. Một vài thí dụ về
từ láy: vui vẻ, xinh xắn, khô khan, đẹp đẽ...
Hiện tượng láy từ có tác dụng trước hết là sự cân đối, sự hài hoà
giữa các âm tiết của từ. So sánh hai câu dưới đây:
2a Căn nhà này khá
rộng.
2b Căn nhà này khá rộng răi.
Cả hai câu nói đều đúng cách nói
thông thường. Nhưng khi nói rộng răi
như trong câu 2b th́ nghe êm ái hơn, dễ nghe hơn, và do đó được
chuộng hơn.
Xem thế th́ hoà phối ngữ âm là sự kết hợp hài hoà giữa thành phần
của một từ với một từ khác để tạo thành sự cân đối nhịp nhàng. Hoà
phối ngữ âm có thể thực hiện ở cả bốn thành phần âm tiết của từ:
Láy âm đầu: lững lờ, lờ vờ, lụng
thụng
Láy âm chính: đo đỏ, gồ ghề, chúm
chím, nhơng nhẽo
Láy âm cuối: mũm mĩm, hầm hập, ươn
ướt
Láy thanh: thênh
thang, vàng vọt, lả lơi, ngả ngớn
Ở đây chúng ta chỉ chú ư đến sự
hoà phối ngữ âm về mặt thanh điệu. Sự phân bố cân phương này được
gọi là luật hài thanh
[5]. Luật hài thanh được thể hiện qua hai hiện tượng liên quan
đến hoạt động của thanh điệu tiếng Việt:
-
Trước hết là sự hài thanh giữa
hai âm tiết của từ láy: đây là sự phân bố cân đối giữa các thanh
giữa hai âm tiết của một từ kép thành từng đôi một trong mỗi
nhóm dưới đây:
Nhóm thứ nhất (thanh
bổng): ngang - hỏi - sắc
Nhóm thứ nh́ (thanh
trầm): huyền - ngă - nặng
Theo bảng trên đây, hai từ thuộc nhóm thứ nhất có thể mang một
trong ba thanh:
-
Ngang - hỏi:
lửng lơ, thơ thẩn, sang sảng
-
Hỏi - sắc:
lở lói, ngả ngớn, vắng vẻ, gắng gỏi,
-
Ngang - sắc:
diêm dúa, nghe ngóng, mang máng, líu
lo, thối tha
Ba thanh thuộc nhóm thứ nh́
được phân bố kết hợp như sau:
-
Huyền - ngă:
ầm ĩ, lờ lững, ṿi vĩnh, ỡm ờ, thẫn
thờ,
-
Ngă - nặng:
kĩu kịt, nũng nịu, nhăo nhoẹt, hợm
hĩnh, đẹp đẽ
-
Huyền - nặng:
mờ mịt, vàng vọt, lặng lờ,
mặn mà
-
Luật hài thanh c̣n thể hiện cả
trong hiện tượng chuyển thanh điệu của một số từ. Tiếng Việt có
nhiều từ biến đổi thanh mà vẫn không đổi ư nghĩa sang một từ
khác. Hiện tượng chuyển đổi thanh trong tiếng Việt cũng theo
phép hài thanh, nghĩa là các từ chuyển thanh theo hai nhóm mà Lê
Ngọc Trụ (1959) tóm lại thành hai mô h́nh mà ông gọi là
tan - tán - tản và lăi - lời - lợi.
Phép chuyển thanh này như sau:
Đổi thanh theo mô h́nh tan - tán - tản
(nhóm ngang - hỏi - sắc). Dưới đây
là một số trường hợp thường gặp:
chăng - chẳng |
lén - lẻn |
rảy - rưới |
chưa - chửa |
lỏm - lóm |
túa - tủa /
toả |
không - hổng |
thoáng -
thoảng |
há miệng - hả
miệng |
phản - ván |
ham - hám |
nói hở - nói
hớ |
tan - tản |
bấu - bâu |
vểnh mặt -
vênh mặt |
Đổi thanh theo mô h́nh
lăi - lời - lợi (nhóm
huyền - ngă - nặng). Dưới đây là
một số trường hợp thường gặp:
đă - đà |
ngỡ - ngờ |
chậm răi -
chẫm răi |
lời - lợi |
cội - cỗi |
ướt đẫm - ướt
đầm |
dẫu - dầu |
c̣i - cỗi |
đen sậm - đen
sẫm |
cũng - cùng |
đỗ - đậu |
xoă tóc - xoà
tóc |
(sông) Nhị -
(sông) Nhĩ |
thơng - tḥng |
ăn ruỗng - ăn
ruồng |
-
Ngoài ra, có một số từ Hán
Việt và tiếng thuần Việt dường như có liên quan, gần gũi với
nhau
[6]. Những trường hợp vay mượn qua lại như thế cũng tuân
theo phép hài thanh của tiếng Việt, nghĩa là cũng theo một trong
hai mô h́nh tan - tán - tản và lăi - lời -
lợi. Dưới đây là một vài thí dụ về sự giao tiếp ngôn ngữ
như thế:
huyền - ngă -
nặng |
ngang - hỏi -
sắc |
cưỡng - gượng |
thiểu - thiếu |
trữ - giữ |
thố - thỏ |
đăi - đợi |
xả - xá |
Biết được tính cách của luật
hài thanh th́ chúng ta có thể nêu lên thành luật gọi là
"luật hỏi-ngă của các tiếng nôm"
như sau:
Luật 1 |
khi hai tiếng có
thể láy được với nhau th́ hễ một tiếng mang dấu
ngang (không dấu) hoặc dấu sắc th́ tiếng kia phải
mang dấu hỏi; ngược lại, hễ một tiếng mang dấu huyền
hoặc dấu nặng th́ tiếng kia phải mang dấu ngă. |
Luật 2 |
một từ có thể
chuyển thanh điệu sang ngang hoặc sắc th́ chắc chắn
là mang dấu hỏi (theo mẫu tan - tán - tản); ngược
lại, một tiếng có thể chuyển sang thanh huyền hoặc
thanh nặng th́ chắc chắn là có dấu ngă (theo mẫu lời
- lăi - lợi). |
Hai luật hỏi ngă này có thể
giúp giải quyết được một số khá lớn các trường hợp mà người viết
đang c̣n phân vân không biết nên bỏ dấu hỏi hay dấu ngă. Chẳng
hạn, khi phải viết câu dưới đây, người nói giọng đàng trong có
thể phân vân không biết bỏ dấu hỏi ngă thế nào:
3a Chị
mơ gói thịt
mơ ra rồi ngao ngán
thơ dài.
Có thể dùng phép hài thanh
(ngang hỏi sắc-huyền ngă nặng) để t́m ra được rằng: tiếng Việt
có nói mở mang (làm cho rộng ra) theo luật ngang-hỏi-sắc, và có
mỡ màng (có nhiều chất dầu, mỡ) theo luật huyền-ngă-nặng; lại
cũng có thở than (than văn chuyện ǵ) mà không có *thỡ (viết với
dấu ngă). Vậy câu 3a bỏ dấu hỏi ngă như sau:
3b Chị
mở gói thịt
mỡ ra rồi ngao ngán
thở dài.
Một thí dụ khác là khi viết
câu dưới đây:
4a Đứa bé
đa ăn no rồi mà
vân chưa chịu đi
ngu.
Chúng ta biết là từ đă ở đây
phải bỏ dấu ngă v́ cũng có thể nói đà mà câu vẫn không đổi
nghĩa. Từ vẫn mang dấu ngă v́ phó từ này không có thể nhầm lẫn
với từ vẩn - Có nghĩa là chất cặn bẩn, hoặc từ vẩn vơ (có nghĩa
là tâm trạng không dứt khoát) theo luật ngang-hỏi-sắc. Từ ngủ ở
cuối câu th́ chỉ có thể láy thành ngủ nghê theo luật
ngang-hỏi-sắc, nên phải mang dấu hỏi. Vậy th́ câu 4a được viết
hoàn chỉnh như sau:
4b Đứa bé
đă ăn no rồi mà
vẫn chưa chịu đi
ngủ.
-
Ngoài ra, cũng nên biết thêm
là người Việt - nhất là người miền Nam - hay nói gộp các tiếng
hai âm tiết thành một trong những trường hợp sau đây: phải không
> phỏng, bà ấy >
bả, ở bên ngoài ấy > ở
ngoải, hôm ấy >
hổm, năm ấy >
nẳm, hồi ấy > hổi
[7]. Tất cả những tiếng nói gộp trên đây đều mang dấu hỏi.
Vậy th́ có luật 3 như sau:
Luật 3 |
Các tiếng nói gộp
âm đều mang dấu hỏi |
-
Trong kho từ ngữ tiếng Việt
hiện đại c̣n có một nhóm nhỏ những từ ngữ nước ngoài nhưng đă
được chuyển sang giọng đọc tiếng Việt. Các tiếng vay mượn thường
được phiên chuyển sang thanh hỏi: moả (< moi), xừ luỷ (< lui),
đi rỏn (< ronde), sở cẩm (< commissaire de police), làm cỏ vê (<
corvée). Vậy có thể nêu thành luật cho loại từ ngữ này như sau:
Luật 4 |
các tiếng vay mượn
từ tiếng nước ngoài và đă chuyển sang giọng tiếng
Việt, th́ thường viết với dấu hỏi. |
DẤU HỎI NGĂ CỦA TỪ HÁN VIỆT
Như đă nói ở trên, nhận biết được
một từ Hán Việt sẽ có lợi rất lớn là phân biệt được một phần khá lớn
những từ mang dấu hỏi ngă thuộc nhóm từ Hán Việt. Giở từ điển Hán
Việt, ta có thể thấy là:
(1) Những từ Hán Việt bắt đầu bằng
các phụ âm d, l, m, n. nh, ng, v thường viết dấu ngă
[8]. Có khoảng 180 từ Hán Việt mang dấu ngă. Ví dụ:
Phụ âm d: dă, dĩ, dũ,
dữ. |
Phụ âm l: lăo, lễ,
lỗ, lữ |
Phụ âm m: măo, mănh,
mẫn, mỗ |
Phụ âm n: năo, nễ,
nỗ, nữ |
Phụ âm ng: ngă, ngỗ,
ngũ, ngữ |
Phụ âm nh: nhă, nhĩ,
nhũ, nhữ |
Phụ âm v: vẫn, vĩ,
viễn, vũ |
(2) Ngoài những trường hợp kể trên, các từ Hán Việt khác bắt đầu
bằng các phụ âm khác đều viết dấu hỏi, trừ những lệ ngoại sẽ nói ở
dưới. Ví dụ về các từ Hán Việt có dấu hỏi:
Nguyên âm:
|
ả, ảo, ẩn, yểu, uẩn,
uỷ. |
Phụ âm |
|
b |
bảo, bỉ, bỉnh, bổng,
bửu |
c/k/q |
cảo, cổ, củ, kỉ,
kiểu, quả, quản, quảng, quỷ |
đầu ch |
chỉ, chiểu, chuẩn,
chủng, chử |
đầu đ |
đả, đẩu, để, điểu,
đổ |
gi |
giả, giảo, |
h |
hảo, hỉ, hổ, hủ |
đầu kh |
khả, khẩu, khổ, khởi |
ph |
phả, phỉ, phổ |
s |
sỉ, sổ, sửu |
t |
tả, tảo, tể, tỉ, tổ,
tử |
th |
thải, thổ, thủ,
thưởng |
tr |
trảo, trảm, triển,
trưởng |
x |
xa, xả, xảo, xỉ, xử |
Nhóm thứ nh́ này có khoảng 30 trường hợp ngoại lệ, cần nhớ thuộc
ḷng. Dưới đây là bảng liệt kê các từ đó với những thí dụ về từ ghép
đặt trong ngoặc:
Phụ âm |
|
b |
băi (băi thị, băi
nại), bĩ (bĩ vận), |
c |
cữu (linh cữu), cưỡng
(cưỡng đoạt) |
đ |
đăng (khoáng đăng),
đễ (hiếu đễ), đỗ (Đỗ thị) |
h |
hăm (hăm hại), hăn
(hăn hữu), hoăn (hoăn binh), hĩ (một tiếng đệm), hỗ (hỗ
trợ), hỗn (hỗn hợp, hỗn mang), huyễn (huyễn mộng), hữu
(bằng hữu) |
k |
kĩ (ca kĩ, kĩ thuật,
kĩ xảo) |
ph |
phẫn (phẫn nộ), phẫu
(giải phẫu) |
d |
quẫn (quẫn bách), quỹ
(quỹ đạo, quỹ tích, thủ quỹ) |
s |
sĩ (bác sĩ, viện sĩ),
suyễn (suyễn tức, suyễn yết) |
t |
tiễn (tiễn biệt),
tĩnh (tĩnh mịch), tuẫn (tuẫn tiết) |
th |
thuẫn (mâu thuẫn),
thũng (phù thũng) |
tr |
trăi, trẫm, trĩ (ấu
trĩ), trữ (dự trữ, lưu trữ, tích trữ) |
x |
xă (xă hội, xă tắc) |
Từ hai điểm trên, chúng ta có thể nêu lên hai luật hỏi ngă dành cho
tiếng Hán Việt như sau:
Luật 5 |
các từ Hán Việt có phụ
âm đầu d, l, m, n, nh, ng, v đều có dấu ngă. |
Luật 6 |
các từ Hán Việt khác
có thanh hỏi. Trừ khoảng 30 trường hợp ngoại lệ. |
Tóm lại, viết dấu hỏi ngă tiếng
Việt cho dù phức tạp nhưng vẫn có những lề luật từ tự thân tiếng
Việt. Những mẹo luật mà Nguyễn Đ́nh và Lê Ngọc Trụ đă phát hiện và
được nhắc đến ở đây chẳng qua chỉ là những phát hiện những quy luật
ẩn dấu trong hoạt động ngôn ngữ mà thôi. Để có thể áp dụng sáu
"luật hỏi ngă" trên đây, cần đến công phu thực tập đều đặn trong
một thời gian đủ để chiêm nghiệm những quy luật được thể hiện qua
thực tiễn ra sao.
Trong t́nh h́nh dạy và học tiếng
Việt tại hải ngoại hiện nay, việc phân biệt dấu hỏi và dấu ngă là
một công việc khó khăn. Nhưng đây cũng lại là một việc cần thiết vô
cùng, v́ đó là một trong những công việc cần thiết để nâng cao tŕnh
độ hiểu biết về chuẩn mực ngôn ngữ của tiếng Việt. Có thể là chuyện
viển vông khi nói đến chuẩn mực ngôn ngữ ở hải ngoại lúc này, nhưng
đây lại là nhu cầu chính đáng của lớp trẻ ngày càng đ̣i hỏi phải
nh́n lại cho rơ đâu là chuẩn mực ngôn ngữ. Đó cũng chính là mục đích
của chính tả vậy
[9].
Đoàn Xuân Kiên
Luân Đôn (1998)
* Bài
đăng trong tập san Định Hương 21 (1998)
Tài liệu:
-
Lê Ngọc Trụ
(1959): Chánh Tả Việt Ngữ. (bản in ḱ 2). Sài G̣n: nxb. Trường
Thi
-
Nguyễn Đ́nh
(1939): Luật Ngă Hỏi, tạp chí Tao Đàn (Hà Nội), bộ mới, số 8,
ngày 16.6.1939
-
Phan Ngọc
(1982): Chữa Lỗi Chính Tả Cho Học Sinh. Hà Nội: nxb. Giáo Dục
Ghi chú:
[1]
Đoàn Xuân Kiên, "Bàn về việc đánh dấu thanh tiếng Việt", in trong
tập san Định Hướng số 17 (mùa thu 1998), tr. 109-121.
[2] Tiếng Việt hiện đại có khoảng 2000 từ mang dấu
hỏi, và khoảng trên 1000 từ mang dấu ngă.
[3] Nói về hiện tượng vay mượn th́ cần chú ư riêng
đến vốn từ ngữ mượn từ tiếng Trung Hoa do người Hán đem sang từ khi
họ đô hộ nước Việt cổ. Trong một thời gian dài cả ngh́n năm, tiếng
Hán đă trở thành một thứ ngôn ngữ chính thức trong xă hội Việt. Đến
khi nước ta giành lại nền độc lập (năm 939) th́ tiếng Hán vẫn là thứ
văn tự chính thức trong hành chính và giáo dục. V́ thế mà chúng ta
gọi kho từ ngữ Hán dùng tại nước ḿnh là tiếng Hán Việt. Chỗ đứng
của tiếng Hán Việt trong kho từ ngữ tiếng Việt hiện đại rất là đặc
biệt, khác hẳn với một số nhỏ những từ ngữ mượn từ các ngôn ngữ
phương tây về sau: đă từ lâu đời rồi, ngôn ngữ văn hoá của người
Việt không thể thiếu vốn từ Hán Việt. Chỗ đứng của tiếng Hán Việt
trong tiếng Việt trong chừng mức nào đó tương tự như tiếng Latin
trong các ngôn ngữ Ấn-Âu vậy. Trước đây, nhà cầm quyền cộng sản Việt
Nam toan loại bỏ chỗ đứng của từ Hán Việt. Nay th́ họ lại rơi vào
một quá khích khác, là dùng nhiều từ Hán Việt đến mức làm cho tiếng
Việt nhiều khi tối tăm, nặng nề. (Báo Nhân Dân có thừa những dẫn
chứng cụ thể về chuyện này). Chúng ta không sùng bái nhưng cũng
không thể có thái độ ḱ thị đối với tiếng Hán Việt. Vả chăng, số vốn
từ vựng Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại chiếm đến khoảng 60% từ
ngữ, th́ thái độ chính đáng của bất cứ ai quư trọng tiếng Việt là
cần phải học hỏi và trau giồi vốn từ Hán Việt.
[4]
Cần lưu ư là trong lối nói thông thường hiện nay có khi chúng ta nói
bất kể nhưng đây là trường hợp nói sai quy tắc, v́ kể không phải là
từ Hán Việt.
[5]
"Luật" này đă được một nhà giáo trẻ -tên là Nguyễn Đ́nh- t́m ra đầu
tiên. Ông gửi đăng trên tạp chí Tao Đàn số 8 bộ mới (1939) một bài
báo mà ông gọi là luật ngă hỏi. Về sau ông Lê Ngọc Trụ đă phát triển
thêm và gọi đó là luật bổng trầm (1943). Cũng Lê Ngọc Trụ đă khai
triển thêm về những lề lối chuyển thanh âm của tiếng Hán Việt, và
hoàn ch́nh các mẹo luật chính tả tiếng Việt trong tập Chánh tả Việt
ngữ (1952).
[6]
Các nhà Hán ngữ học (như Vương Lực) đă ḍ t́m trong một số từ ngữ
Việt rất gần với giọng phát âm của người Hán, và đă đưa ra giả
thuyết là tiếng Hán cổ có thể cũng vay mượn một số từ của Giao Châu
trong thời ḱ người Hán sang đô hộ.
[7]
Gs. Lê Ngọc Trụ cho rằng có một ngoại lệ là hỗi (dấu ngă), v́ ông
cho rằng đó là nói gộp âm của "hồi năy đến giờ". Các bạn miền Nam
của chúng tôi th́ lại cho rằng khi nói hổi, họ nghĩ đến "hồi đó tới
giờ". Vậy th́ có một biệt lệ ở đây hay chăng?
[8]
Để cho dễ nhớ, có thể học thuộc ḷng câu sau đây: "ḿnh nên nhớ là
viết dấu ngă ", trong đó các âm đầu đều mang phụ âm của các từ Hán
Việt có dấu ngă.
[9]
Chính tả nghĩa là viết (tả) cho đúng (chính), nghĩa là viết đúng
theo một mẫu mực nào đó được xă hội công nhận và quy định làm mực
thước cho mọi người phải tuân theo.
------------------
Tài liệu tham khảo thêm:
VIỆT NGỮ HỎI
NGĂ TỰ VỊ
của ĐINH SĨ
TRANG
http://www.budsas.org/uni/u-hoinga/hoinga00.htm
|