Họa hữu nhân yên hà ngụ hứng
Kỳ nhất
Nguyễn Trăi
Bồng Lai Nhược Thủy yểu vô nha (nhai),
Tục cảnh đê hồi phát bán hoa.
Vân ngoại cố cư không huệ trướng,
Nguyệt trung thanh mộng nhiễu sơn gia.
Tâm như dă hạc phi thiên tế,
Tích tự chinh hồng đạp tuyết sa.
Nham huyệt thê thân hà nhật thị,
Thiên môn hồi thủ ngũ vân xa.
- Dịch nghĩa -
Họa bài thơ “Yên hà ngụ hứng “ của bạn
Non Bồng nước Nhược mịt mờ không
bờ bến,
Cảnh tục quẩn quanh tóc đă hoa râm một nửa.
Nơi ở cũ ngoài mây,bỏ không trướng huệ,
Giấc mộng thanh đêm trăng, dạo quanh nhà trên núi.
Ḷng như hạc nội bay giữa bầu trời,
Dấu tựa chim hồng dẫm trên băi tuyết.
Ngày nào mới được về nương thân nơi hang đá,
Quay đầu nh́n cửa trời, năm thức mây đă xa.
- Bản dịch
của Hạt Cát -
Bồng
Lai Nhược Thủy mịt không bờ,
Cơi tục lần hồi tóc bạc phơ.
Nhà cũ ngoài mây phai trướng huệ,
Xóm quê dưới núi đắm trăng mơ.
Ḷng như hạc nội bay trời thẳm,
Dấu tựa hồng ngàn dẫm tuyết trơ.
Thân thế ngày nào nương động đá ?
Năm mây ngoảnh lại cửa cung mờ !
-- Chú thích -
Bồng Lai, NhượcThủy: Bồng lai là tên
ḥn đảo trong Bột Hải, tương truyền có tiên ở. Trong Bột Hải có Bồng Lai,
Phương Trượng và Doanh Châu. Xung quanh ba đảo này có một biển nước bao
bọc là Nhược Thủy, một thứ nước rất yếu, vứt cái lông ngỗng xuống cũng
ch́m, không đỡ nổi một hạt cải. Người xưa cho chỗ đó chỉ có thần tiên ở
được thôi. Nghĩa bóng chỉ chỗ ở đẹp đẽ thoát tục.
Tích tự chinh hồng: Do câu thơ của Tô Thức “ Nhân sinh đáo xứ tri
hà tự? Ưng tự phi hồng đạp tuyết nê” (Đời người ta giống như cái ǵ? Phải
chăng như chim hồng dẫm trên làn tuyết. Trên làn tuyết ngẫu nhiên để lại
vết chân, chim hồng bay nào kể chi đông tây).
Thiên môn: Cửa trời, chỉ cung điện nhà vua
----------------
Văn hứng
Nguyễn Trăi
Cùng hạng u cư khổ tịch
liêu,
Ô cân trúc trượng văn tiêu dao.
Hoang thôn nhật lạc, hà thê thụ.
Dă kính nhân hi, thủy một kiều.
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc,
Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu.
Quy lai độc bẵng lan can tọa,
Nhất phiến băng thiềm quải bích tiêu.
- Dịch nghĩa -
Hứng buổi chiều
Trong ngơ cùng, ở nơi vắng vẻ, buồn nỗi quạnh
hiu,
Khăn đen, gậy trúc đi dạo chơi buổi chiều.
Nơi thôn vắng, mặt trời xế, ráng đậu trên cây,
Con đường ngoài nội ít ngườiqua lại, nước ngập cầu.
Xưa nay thời gian không cùng như sông chảy xuôi mờ mịt,
Anh hùng mang hận như tiếng gió thổi cây lá nghe vu vu.
Trở về một ḿnh ngồi tựa lan can,
Một mảnh trăng sáng lạnh như băng treo trên nền trời biếc.
- Bản dịch của Hạt Cát -
Xóm
vắng đường cùng chạnh lẻ loi,
Khăn đen gậy trúc dạo chiều lơi.
Cây ch́m khói ráng thôn tà bóng,
Nước ngập cầu lau nẻo vắng người.
Kim cổ miên man sông mịt mịt,
Anh hùng lận đận lá vơi vơi.
Quay về chiếc bóng lan can dựa,
Một mảnh trăng treo lạnh biếc trời !
- Chú thích -
Tiêu diêu: ( diêu
hoặc dao: xa) thong thả đi đây đi đó; sống một cách ung dung tự tại, không
bị bó buộc.
Mạc mạc: Mây mù, mây bủa mờ mịt; tả ḍng sông phía xa có mây mù làm
cho mờ mịt đi.
Tiêu tiêu: Gió thổi vù vù; tả cảnh gió thổi vào hàng cây nghe vù
vù.
Bẵng: Chữ 凭 đă được Phan Vơ, Lê Thước, Đào Phương B́nh phiên là
“vựng; Đào Duy Anh phiên là “vững”; nhóm biên soạn Thơ văn Nguyễn Trăi
phiên là “bứng”;Theo Từ hải và Từ nguyên chữ này được phiên thiết là “b́
dăng” th́ phải đọc là “bằng” hoặc “bẵng”. Thiều Chửu cũng đọc hai âm là
“bằng” và “bẵng” và giảng là tựa ghế.
Băng thiềm:( băng: giá, lạnh;thiềm: con thiềm thừ, con cóc lớn) chỉ
mặt trăng v́ truyền thuyết cho rằng trên mặt trăng có con cóc lớn.
Một chắc: Tiếng Nghệ Tĩnh, có nghĩa là một ḿnh
|