Home


 

Trung Bộ Kinh 119

"Kinh Thân Hành Niệm "

Toát Yếu Bài Kinh

Bài Kinh Thân Hành Niệm này Đức Phật dạy cho chư Tỷ kheo ở tinh xá của Trưởng Giả Cấp Cô Độc tại  Jetavana (Kỳ-đà Lâm), thuộc thành Savatthi (Xá-vệ).

Pháp thân hành niệm, khi được tu tập và làm cho sung măn, có được quả lớn, có được công đức lớn. Đức Phật dạy chư tỳ kheo, các hành giả phải tu tập pháp  thân hành niệm như thế nào, được làm cho sung măn như thế nào th́  mới có thể đem lại kết quả lớn, có công đức lớn.

Tóm tắt

-Quán niệm hơi thở, quán bốn oai nghi và an trú chánh niệm.

Chư tỳ kheo, các hành giả nên đi đến nơi thanh vắng an toạ kiết già, an trú chánh niệm, thở vô thở ra nhận biết với chánh niệm, thở dài thở ngắn nhận biết với chánh niệm, cảm giác toàn thân trong khi thở ra thở vào nhận biết với chánh niệm, trong khi thở ra thở vào các hành của thân được an tịnh hành giả nhận biết với chánh niệm. Trong bốn oai nghi khi đi đứng nằm ngồi, mỗi mỗi hành động, vị tỳ kheo nhận biết với chánh niệm. Với các sinh hoạt trong đời sống hằng ngày ăn, uống ngủ nghỉ, đi tới đi lui, đắp y mang áo đều biết rơ việc ḿnh đang làm với chánh niệm.

Nhờ chánh niệm, tâm không phóng dật, được tinh cần, các niệm và tư duy thế tục được đoạn trừ, do vậy nội tâm được an trú, định tĩnh, đó gọi là tu tập thân hành niệm.

Quán thân bất tịnh, quán tứ đại, quán tử thi.

Vị Tỳ kheo, vị hành giả c̣n phải thường xuyên quán tất cả mọi bộ phận cơ thể từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài nhất nhất đều là bất tịnh, đáng ghê sợ, đáng nhờn gớm, quán vị trí các giới và sự sắp đặt các giới với địa đại, thủy đại, hỏa đại, và phong đại, thậm chí c̣n phải t́m đến nghĩa địa để quán các loại tử thi bị hư hoại thối rữa, mục ră bằng nhiều cách khác nhau để chiêm nghiệm tính chất của thân ngũ uẩn, của sắc pháp là như vậy. Nhờ quán như vậy và sanh ra ghê sợ nhàm chán nên vị hành giả sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ,  nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Đó gọi là tu tập thân hành niệm.

Các bậc thiền.

Vị tỷ-kheo, vị hành giả ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm và tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do ly dục sanh.

Vị Tỷ-kheo, hành giả ấy diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do định sanh.

Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "Xả niệm lạc trú", chứng và an trú Thiền thứ ba. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với lạc thọ không có hỷ ấy.

Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy ngồi, thấm nhuần toàn thân ḿnh với tâm thuần tịnh trong sáng. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh.Đó gọi là  tu tập thân hành niệm..

Ví như biển lớn của ai được thấm nhuần bởi tâm, thời các con sông của vị ấy đi vào trong biển, đều thuộc về biển lớn; cũng vậy, đối với vị nào tu tập làm cho sung măn thân hành niệm, các thiện pháp của vị ấy đi vào nội tâm đều thuộc về minh phần.

Đối với Tỷ-kheo nào không tu tập thân hành niệm, không làm cho sung măn, thời Ma vương có cơ hội với vị ấy, Ma vương có cơ duyên với vị ấy.

Đối với vị nào tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, vị ấy hướng tâm đă được chứng ngộ nhờ thắng trí đến pháp nào cần phải chứng ngộ nhờ thắng trí, vị ấy đối mặt đạt được sự tinh xảo của pháp ấy dầu thuộc giới xứ nào (sati sati ayatane).

(Công đức của thân hành niệm)

Thân hành niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung măn, được làm như thành cỗ xe, được làm như thành căn cứ địa, được làm cho kiên tŕ, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức này có thể được mong đợi. Thế nào là mười?

(1) Lạc bất lạc được nhiếp phục.

(2) Khiếp đảm sợ hăi được nhiếp phục.

(3) Vị ấy kham nhẫn được lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, mặt trời, các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó chấp nhận.

 (4) Tùy theo ư muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, vị ấy chứng được bốn Thiền, thuần túy tâm tư, hiện tại lạc trú.

(5) Vị ấy chứng được các loại thần thông.

(6) Với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, ở xa hay ở gần.

(7) Với tâm của vị ấy, vị ấy biết tâm của các chúng sanh.

(8) Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ.

(9) Với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy thấy sự sống và sự chết của chúng sanh.

(10) Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự ḿnh chứng tri với thượng trí, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc.

http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung119.htm

 


| Trang Phật Học | Trang Văn Học| Trang Y Học |

© 2007 hatcat79.com. All Rights Reserved.